Skip to main content

Phiếu tín nhiệm và lòng dân

Khó khăn bủa vây tứ bề, cả nước mong chính quyền sáng suốt và mạnh mẽ vì dân. Mang theo hơi nóng từ những cuộc tiếp xúc cử tri, trong dày đặc chương trình nghị sự, Quốc hội kỳ này sẽ bàn về việc lấy phiếu tín nhiệm. Nếu điều ấy thành công, người dân nước ta có thêm một thước đo tín nhiệm với những người giữ chức vụ trọng yếu trong bộ máy quản trị quốc gia.
Chính quyền mạnh không phải bởi làm nhiều việc, mà biết làm đúng việc với những chính sách thông minh. Để hối thúc chính quyền làm đúng việc, người dân cần phải có tiếng nói và những kênh hối thúc chính quyền chịu trách nhiệm trước cử tri. Là nơi tụ hội những đại biểu ưu tú của nhân dân, Quốc hội nước ta có nhiều quyền lực, song quan trọng bậc nhất phải là quyền giám sát và hối thúc Chính phủ chịu trách nhiệm giải trình trước toàn thể nhân dân.
Toàn thể Quốc hội đã bầu và bổ phiệm ra 49 vị giữ các chức vụ quan trọng bậc nhất trong hệ thống quyền lực Nhà nước. Sau khi được bổ nhiệm, Chính phủ và từng thành viên trong Chính phủ cũng như người đứng đầu các cơ quan tối cao khác phải chịu trách nhiệm báo cáo, chất vấn trước Quốc hội. Thường sau các phiên chất vấn xuất hiện nhu cầu đo lường sự hài lòng của Quốc hội đối với người được chất vấn. Vì lẽ ấy, việc lấy phiếu tín nhiệm tại cơ quan dân cử có thể tạo thêm một kênh đo lường niềm tin của nhân dân đối với chính quyền.
Để làm được điều đó, ngoài việc thông qua Nghị quyết về quy trình và thủ tục lấy phiếu tín nhiệm, Quốc hội phải hối thúc nâng cao chất lượng các báo cáo cũng như phiên chất vấn. Cội nguồn sức mạnh của Quốc hội chính là tính chính danh và công khai. Chính danh, vì Quốc hội đại diện cho quyền lực của toàn thể nhân dân. Chính phủ và các cơ quan tối cao, dù quyền uy tới đâu, cũng phải giải trình và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Công khai, vì hàng triệu cử tri đã gửi gắm nguyện ước của mình vào từng đại biểu, người ta mong ngóng những nguyện ước ấy phải được nói ra trên những diễn đàn nghị viện. Việc lấy phiếu tín nhiệm vì lẽ đó sẽ có thêm sức mạnh và ý nghĩa to lớn nếu được tiến hành thường xuyên như một hoạt động giám sát của Quốc hội và kết quả được công khai cho toàn thể nhân dân.
Khác với lấy phiếu như là hành vi đo lường tín nhiệm thường niên, khi uy tín của một người đứng đầu các cơ quan của chính quyền có dấu hiệu được đánh giá thấp, Quốc hội có thể sẽ tiến hành “bỏ phiếu tín nhiệm”. Về bản chất, cuộc bỏ phiếu này là bỏ phiếu bất tín nhiệm để thể hiện thái độ của Quốc hội nhằm ép các quan chức Chính phủ tuân thủ ý chí của nhân dân. Đây là một công cụ khá đặc biệt trong hoạt động nghị viện, có tính bất thường, chỉ diễn ra khi có dấu hiệu suy giảm niềm tin một cách nghiêm trọng giữa cơ quan dân cử và các cơ quan giữ quyền hành pháp.
Lấy phiếu tín nhiệm thường niên hy vọng sẽ tạo nên sự phân công và phối hợp tương hỗ giữa Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan quyền lực tối cao khác trong bộ máy nhà nước. Càng làm tốt và công khai hóa kết quả lấy phiếu tín nhiệm như một thói quen bình thường, càng giảm dần nguy cơ bất bình thường phải “bỏ phiếu tín nhiệm” khi niềm tin của cử tri suy giảm./.

Popular posts from this blog

Enjoy the Voyage: Behind the Scenes of Tribunal Deliberations

Arbitration can be very simple, but it can also be a voyage to nowhere in the middle of the sea. From the departure to destination, the Tribunal as collective is expected to steer the board. It shall make decisions, either procedural or on merits, by deliberation. But how tribunal deliberations work, particularly in cross-cultural arbitration? That is certainly a mysterious black-box, because tribunal deliberations are case specific (it depends on the nature of the disputes), tribunal specific (it depends on the composition of the tribunal, the background and profile, and mentality of the presiding arbitrator and its fellows), and the like. But there are some best practice for efficient deliberations: Not consensus, but collegiality is important: each arbitrator shall actively be involved. Not focusing on the destination, enjoying the voyage: the facts, the issues, the rational behind the disputes are important. Not merely the award, an efficient case management, fairness and due

Đoán định tư pháp là gì?

Bài viết ngắn dưới đây góp phần tìm hiểu và trả lời các câu hỏi sau đây: (i) Đoán định tư pháp là gì, ra đời trong bối cảnh nào, có ảnh hưởng gì trong ngành tư pháp trên thế giới, (ii) Ngành tư pháp Việt Nam nên chuẩn bị như thế nào để chủ động ứng xử với xu thế Đoán định tư pháp [1] . Đoán định tư pháp (Predictive Justice) là gì? 1.       Đoán định tư pháp là một xu thế thay đổi cung cách cung cấp dịch vụ pháp lý, trong đó có hoạt động xét xử của tòa án, dưới sức ép của thời đại dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), với sự xuất hiện của các công ty khởi nghiệp công nghệ pháp lý (Legal Tech start-up), cung cấp những giải pháp tư vấn, hỗ trợ pháp lý trên nền tảng của các công nghệ thông minh. 2.       Xu thế này bắt nguồn từ những nỗ lực cung cấp nguồn luật mở (open data) từ 50 năm nay. Do công nghệ thay đổi rất nhanh (máy tính, vật liệu bán dẫn, chip điện tử, mạng Internet, các thuật toán dẫn tới trí tuệ nhân tạo), 50 năm qua máy tính đã thông minh hơn 1,

Bên thứ ba trong Thủ tục trọng tài: Một góc nhìn từ thực tiễn thực thi pháp luật

Đề dẫn : Theo Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, vào thời điểm hiện nay nước ta đã có 48 tổ chức trọng tài được thành lập, với hơn 600 trọng tài viên, mỗi năm tham gia giải quyết hàng nghìn vụ tranh chấp thương mại [1] . Một dịch vụ trọng tài đã hình thành. Càng phát triển, những đặc thù của dịch vụ này càng lộ rõ hơn, trong đó có việc xử lý lợi ích của bên thứ ba. Rất khác với tố tụng toà án, về nguyên tắc, trọng tài là thủ tục không công khai, sự tham gia của bên thứ ba là ngoại lệ. Không thể học theo quy định của Tố tụng dân sự để đưa bên thứ ba vào Tố tụng trọng tài. Bài viết dưới đây thảo luận về việc xem xét và đảm bảo lợi ích của Bên thứ ba trong Thủ tục trọng tài. Sau khi minh họa một số tình huống trong đó các bên tranh chấp hoặc Hội đồng trọng tài có thể cần lưu ý tới lợi ích của Bên thứ ba. Mục tiêu của Tố tụng trọng tài là góp phần giải quyết các tranh chấp một cách công bằng, thúc đẩy các bên tự thực thi nghĩa vụ, tránh làm lan rộng thêm kiện tụng. Từ những cân nhắc đó, bài v