Skip to main content

Không phải ban quyền cho dân, HP viết ra để trói buộc chính quyền

Trả lời ông Lê Thanh Phong, báo Lao Động (18/05/2012), nguyên bản thế này:

Nhu cầu về thiết chế bảo hiến

Trước hết cần lưu ý Hiến pháp là một khế ước của nhân dân lập ra để kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp viết ra để trói buộc chính quyền chứ không phải ban quyền cho người dân. Nhưng ở một số quốc gia, Hiến pháp đã không được hiểu với ý nghĩa đó. Ví dụ Liên Xô trong giai đoạn 1922 – 1990, Hiến pháp được hiểu như là tuyên bố của Đảng cầm quyền. Một số quốc gia khác cũng sử dụng Hiến pháp như cương lĩnh của nhà nước, của những người lãnh đạo. Đó là sự khác biệt so với những quốc gia dân chủ, tôn trọng quyền tự do của công dân và kiểm soát quyền lực của nhà nước. Ở các quốc gia đó, Hiến pháp được viết ra để trói buộc nhà cầm quyền. Người có khả năng vi phạm Hiến pháp thường không phải nhân dân, mà là các các cơ quan có thể sử dụng quyền lực công. Các cơ quan giữ quyền lực công là Chính phủ, Tòa án, Quốc hội. Một đạo luật do Quốc hội ban hành, một hành vi của Chính phủ có thể vi phạm Hiến pháp, chính vì vậy phải có thiết chế bảo hiến nhằm bảo đảm Hiến pháp được thực thi.

Trong điều kiện VN, mô hình thiết chế bảo hiến nào là phù hợp thưa ông?

Trên thế giới có ba mô hình thiết chế bảo hiến, ví dụ Tối cao pháp viện Hoa Kỳ có thẩm quyền xét xử tranh chấp Hiến pháp hoặc mô hình Tòa bảo hiến ở Đức tách khỏi tòa thường tụng, hoặc mô hình Hội đồng bảo hiến ở Pháp. Tuy nhiên, nếu áp dụng vào VN cần phải nghiên cứu các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, sự nhận biết của người dân để thiết chế bảo hiện phát huy được hiệu quả. Về chính trị, VN có một đảng lãnh đạo, Đảng quyết định các quyết sách lớn của đất nước. Cho nên, nếu xuất hiện một thiết chế mới đụng chạm đến các thiết chế hiện hữu thì cần tính toán thật kỹ để thiết chế mới có thực quyền. Thiết chế bảo hiến là một thiết chế chính trị, khi ra đời sẽ tác động đến các thiết chế khác. Trong bối cảnh VN hiện nay, tôi không tin có một thiết chế bảo hiến sẽ phát huy được hiệu quả.

Vậy thì khi nào VN mới có một thiết chế bảo hiến có thể sống được theo quan điểm của ông?

Ý nghĩa của chữ “sống” ở đây là cơ quan bảo hiến đóng vai trò đáng kể trong đời sống chính trị, nhân dân có thể dặt niềm tin và sự kính trọng vào cơ quan đó. Điều đó phụ thuộc vào nhiều điều như đã phân tích trên. Không phải chỉ riêng VN mà bất cứ quốc gia nào cũng cần có quá trình trưởng thành, hay nói cách khác là hội đủ các điều kiện để có được một thiết chế bảo hiến thực chất. Hàn Quốc du nhập thiết chế bảo hiến từ năm 1945, nhưng đến năm 1980 mới hoạt động có hiệu quả. Đức tuyên bố có tư duy bảo hiến từ Hiến pháp Weimar những năm 1918, nhưng trên thực tế, mãi đến sau 1949, cơ quan bảo hiến của Đức mới có hình hài rõ rệt. Thái Lan vay mượn thiết chế bảo hiến của Đức, song thành công còn hạn chế.

Ông có đề cập đến sự nhận biết của người dân, vấn đề này được hiểu như thế nào?

Dư âm của tâm lý thần dân đã tồn tại ở VN cả ngàn năm nay không thể một sớm một chiều mà tan biến được. Cần phải có quá trình và thời gian để người dân nhận biết đầy đủ về quyền công dân của mình, hiểu rằng quyền được nói, được biết, được tự do hội họp, biểu tình của công dân là những quyền đương nhiên họ được hưởng. Khi tinh thần công dân tăng lên mới xuất hiện nhu cầu đòi các quyền đó phải được tôn trọng.

Theo ông, chế ước quyền lực nhà nước sẽ thiết kế ra sao khi VN không đi theo chủ thuyết tam quyền phân lập?

Trong cấu trúc quyền lực VN, quyền lực thực tế dồn vào Chính phủ và UBND các địa phương. Hệ thống tòa án cần nỗ lực để có thêm niềm tin và sự kính trọng cao trong xã hội. Quốc hội với ¾ đại biểu kiêm nhiệm nên chưa thể chuyên nghiệp. Vì hai thiết chế đó còn yếu nên quyền lực tập trung vào lực lượng hành pháp. Nếu phân bổ lại quyền lực, cần phân nhiệm để có đối trọng và kiểm soát quyền lực. Quốc hội thực sự mạnh khi đại biểu Quốc hội thực sự nói lên tiếng nói cử tri của mình. Muốn làm được điều đó đại biểu phải chuyên nghiệp, là một nghề có thù lao xứng đáng, có đầy đủ phương tiện và điều kiện hỗ trợ phục vụ cho hoạt động. Muốn tòa án mạnh, nhiệm kỳ của thẩm phán phải đủ dài, không hạn chế 5 năm như hiện nay. Tổ chức tòa án phải độc lập, tách ra khỏi ảnh hưởng của lực lượng hành pháp mà tòa án khu vực có thể là một mô hình.

Xin cảm ơn ông
Lê Thanh Phong thực hiện.

Popular posts from this blog

Enjoy the Voyage: Behind the Scenes of Tribunal Deliberations

Arbitration can be very simple, but it can also be a voyage to nowhere in the middle of the sea. From the departure to destination, the Tribunal as collective is expected to steer the board. It shall make decisions, either procedural or on merits, by deliberation. But how tribunal deliberations work, particularly in cross-cultural arbitration? That is certainly a mysterious black-box, because tribunal deliberations are case specific (it depends on the nature of the disputes), tribunal specific (it depends on the composition of the tribunal, the background and profile, and mentality of the presiding arbitrator and its fellows), and the like. But there are some best practice for efficient deliberations: Not consensus, but collegiality is important: each arbitrator shall actively be involved. Not focusing on the destination, enjoying the voyage: the facts, the issues, the rational behind the disputes are important. Not merely the award, an efficient case management, fairness and due

Đoán định tư pháp là gì?

Bài viết ngắn dưới đây góp phần tìm hiểu và trả lời các câu hỏi sau đây: (i) Đoán định tư pháp là gì, ra đời trong bối cảnh nào, có ảnh hưởng gì trong ngành tư pháp trên thế giới, (ii) Ngành tư pháp Việt Nam nên chuẩn bị như thế nào để chủ động ứng xử với xu thế Đoán định tư pháp [1] . Đoán định tư pháp (Predictive Justice) là gì? 1.       Đoán định tư pháp là một xu thế thay đổi cung cách cung cấp dịch vụ pháp lý, trong đó có hoạt động xét xử của tòa án, dưới sức ép của thời đại dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), với sự xuất hiện của các công ty khởi nghiệp công nghệ pháp lý (Legal Tech start-up), cung cấp những giải pháp tư vấn, hỗ trợ pháp lý trên nền tảng của các công nghệ thông minh. 2.       Xu thế này bắt nguồn từ những nỗ lực cung cấp nguồn luật mở (open data) từ 50 năm nay. Do công nghệ thay đổi rất nhanh (máy tính, vật liệu bán dẫn, chip điện tử, mạng Internet, các thuật toán dẫn tới trí tuệ nhân tạo), 50 năm qua máy tính đã thông minh hơn 1,

Bên thứ ba trong Thủ tục trọng tài: Một góc nhìn từ thực tiễn thực thi pháp luật

Đề dẫn : Theo Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, vào thời điểm hiện nay nước ta đã có 48 tổ chức trọng tài được thành lập, với hơn 600 trọng tài viên, mỗi năm tham gia giải quyết hàng nghìn vụ tranh chấp thương mại [1] . Một dịch vụ trọng tài đã hình thành. Càng phát triển, những đặc thù của dịch vụ này càng lộ rõ hơn, trong đó có việc xử lý lợi ích của bên thứ ba. Rất khác với tố tụng toà án, về nguyên tắc, trọng tài là thủ tục không công khai, sự tham gia của bên thứ ba là ngoại lệ. Không thể học theo quy định của Tố tụng dân sự để đưa bên thứ ba vào Tố tụng trọng tài. Bài viết dưới đây thảo luận về việc xem xét và đảm bảo lợi ích của Bên thứ ba trong Thủ tục trọng tài. Sau khi minh họa một số tình huống trong đó các bên tranh chấp hoặc Hội đồng trọng tài có thể cần lưu ý tới lợi ích của Bên thứ ba. Mục tiêu của Tố tụng trọng tài là góp phần giải quyết các tranh chấp một cách công bằng, thúc đẩy các bên tự thực thi nghĩa vụ, tránh làm lan rộng thêm kiện tụng. Từ những cân nhắc đó, bài v