Luật Đối thoại, hòa giải tại tòa án đã được đưa vào Chương trình xây dựng
pháp luật, dự kiến sẽ được Quốc hội thảo luận lần thứ nhất vào kỳ họp tháng
10/2019, thảo luận lần thứ hai và có thể được thông qua vào kỳ họp tháng 5/2020.
Để cung cấp thêm thông tin, bài viết dưới đây giới thiệu quy định pháp luật và
thực tiễn hòa giải tại tòa án của CHLB Đức. Đức là nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới,
có kim ngạch XNK thuộc loại cao nhất thế giới (thậm chí năm 2018 thặng dư
thương mại vượt cả Trung Quốc). Nước Đức có một nền tư pháp truyền thống đáng tự
hào, song đang buộc phải thay đổi để du nhập các hình thức giải quyết tranh chấp
lựa chọn (ADR), trong đó có hòa giải trong và ngoài tòa án.
I. Sơ lược kinh nghiệm về hòa giải tại tòa án của CHLB Đức:
Cũng
giống như ở các nước khác, hòa giải tại Đức có thể được tiến hành ngoài tòa án,
hoặc tại tòa án. Để phân biệt, về khái niệm, hòa giải viên ngoài tòa được gọi
là Mediator (vay từ tiếng Anh), hòa giải viên tại tòa án thì được gọi là Güterichter (nếu dịch ra tiếng
Anh là conciliation judge, tức là thẩm phán thương lượng, hòa giải, chữ này mới
xuất hiện từ 2004, bắt đầu ở bang Bayern). Hòa giải ngoài tòa có truyền thống
lâu dài, do hiệp hội (ví dụ bảo hiểm, hàng hải, các phòng công thương), các trọng
tài viên, luật sư.. tiến hành. Hòa giải ngoài tòa đương nhiên cần trả phí, tuy
không có bảng giá chung, song phí được ước tính từ 80-250 EUR một giờ làm việc
của hòa giải viên[1].
Ngược lại, hòa giải tại tòa thì không tốn phí phát
sinh, ngoài án phí đã nộp cho tòa án. Có hai hình thức hòa giải tại tòa. Một là hòa giải trong tố tụng được tiến
hành bởi thẩm phán xử lý vụ việc, nếu hòa giải thành thì tòa sẽ ra quyết định
hòa giải thành. Hai là hòa giải bởi một
thẩm phán hòa giải trước quá trình tố tụng, hình thức này đã được thử nghiệm ở
tòa án một số tiểu bang từ năm 2006. Đến năm 2012, một đạo Luật Hòa giải ngắn gọn
(viết tắt Mediationsgesetz) được ban hành[2],
sau đó người ta sửa 12 bộ luật & luật liên quan, bao gồm các bộ luật tố tụng
dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng an sinh xã hội, luật sáng chế, luật thương
hiệu, luật án phí… tương ứng để thực hiện đạo luật này trong phạm vi toàn quốc
từ năm 2013[3].
Như vậy, người Đức thử nghiệm các mô hình hòa giải tại tòa án bởi thẩm phán hòa
giải khoảng 6 năm rồi mới tiến hành ban hành Luật[4].
Về phạm vi hòa giải tại tòa án, được áp dụng cho tất cả vụ án dân sự,
hành chính, lao động và an sinh xã hội[5]
(nghĩa là chỉ loại trừ án hình sự). Có vẻ như hòa giải tại tòa bước đầu trở nên
phổ biến trong các tranh chấp dân sự thuần túy (hôn nhân, gia đình, tài sản, thừa
kế…), việc triển khai hòa giải trong án hành chính dường như chậm chạp và khó
khăn hơn nhiều[6]. Để phân
biệt với hòa giải ngoài tòa, hòa giải tại tòa chỉ tiến hành khi tòa đã thụ lý một
vụ án dân sự, hành chính hoặc an sinh xã hội (tức là đã có đơn khởi kiện &
tòa đã thụ lý trong phạm vi thẩm quyền của mình).
Thủ tục hòa giải được tiến hành ở tòa sơ cấp (Amtsgericht) và tòa trung
cấp (Landgericht), tại các phiên sơ thẩm và phúc thẩm, và tại tòa cấp cao
(Oberlandesgericht). Sau khi thụ lý, lãnh đạo tòa án có quyền gợi ý các bên tiến
hành hòa giải bởi một thẩm phán tại tòa, họ chuyển vụ việc đã thụ lý cho một thẩm
phán hòa giải. Tuy nhiên, chỉ khi các bên chấp thuận hòa giải, việc hòa giải mới
được tiến hành, khi đó thủ tục tố tụng tại tòa tạm dừng[7].
Nếu chấp nhận hòa giải, các bên không phải nộp thêm chi phí nào cho Tòa
án, ngoài án phí theo quy định chung khi khởi kiện. Như vậy, để khuyến khích
hòa giải, Nhà nước Đức phải dự kiến ngân sách bố sung cho việc đầu tư cho các thẩm
phán hòa giải, đào tạo bổ sung kỹ năng hòa giải, cung cấp trang thiết bị cho
các phòng hòa giải tại tòa (khác với thiết kế của các phòng xử án).
Thẩm phán hòa giải phải là người sẽ không tham gia xét xử vụ án sau này,
trung lập, có kiến thức phù hợp (luật pháp và tâm lý), ví dụ thẩm phán hòa giải
trong án hành chính phải tham gia tập huấn khoảng 60 giờ, tức là 3 đợt seminar
nghiệp vụ, mỗi đợt 3 ngày. Khi hòa giải, người này phải trung lập, chỉ tạo điều
kiện cho các bên phát biểu ý kiến, giải thích các lựa chọn của mình, và thỏa
thuận về phương án hòa giải, mà không đưa ra quan điểm, nhận xét pháp lý của
riêng mình về vụ kiện. Thủ đô Berlin chẳng hạn, với dân số khoảng 3,7 triệu người,
các tòa án tại tiểu bang này đã tập huấn và có một đội ngũ 50 thẩm phán hòa giải,
hàng năm tham gia hòa giải khoảng 700 vụ việc, trong đó phần lớn khoảng 550 vụ
tại tòa trung cấp (Landesgericht)[8].
Về thủ tục phân công công việc cho các thẩm phán hòa giải, các tòa án có
quyền ban hành quy tắc nội bộ phân công vụ việc cho từng thẩm phán hòa giải.
Sau khi nhận được phân công này của tòa, thẩm phán hòa giải có quyền xem hồ sơ
vụ án, có quyền mời các bên tham gia các phiên họp để hòa giải[9].
Nếu một bên không tham gia thì phải dừng hoặc chấm dứt thủ tục hòa giải. Nếu
hòa giải thành, các bên có thể đề nghị tòa án thông qua một Quyết định công nhận
hòa giải thành.
Luật Đức quy định tại khoản 5 Điều 278 BLTTDS (ZPO) một cách nguyên tắc
rằng: Thẩm phán hòa giải được vận dụng các phương pháp giải quyết tranh chấp,
bao gồm trung gian hòa giải. Khái quát, trong các khóa tập huấn cho người làm
nghề hòa giải viên, (Luật Đức và Áo quy định hòa giải viên mỗi năm phải tham dự
tối thiểu 10 giờ tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ), người ta thường khái quát kinh
nghiệm thành công cho các hòa giải viên như sau:
·
Bước 1: Phải có cơ sở vật chất phù hợp, phòng hòa giải
cần được thiết kế khác với phòng xử án, các bên ngồi cùng một bàn, tốt nhất là
bàn tròn, xung quanh có bảng để minh họa, màu sắc & bài trí căn phòng thân
thiện, gần gũi.
·
Bước 2: Hòa giải viên giới thiệu các bên tham gia và
luật sư của họ, luật sư tham gia với vai trò tư vấn nhiều hơn tranh tụng.
·
Bước 3: Hòa giải
viên giới thiệu, gợi ý, ghi nhận sự thống nhất về quy tắc hòa giải, ví dụ tính
bảo mật, tính riêng tư không công khai, không sử dụng tài liệu, nhận định của
các bên làm bằng chứng cho các bước tố tụng nếu có sau này.
·
Bước 4: Hòa giải viên khuyến khích các bên lắng nghe
và thấu hiểu lý do các bên đưa ra các yêu cầu và lập luận của họ. Ghi nhận các
điểm đồng thuận, các điểm cần tranh luận về sự kiện và cách hiểu.
·
Bước 5: Hòa giải viên khuyến khích các bên đề xuất các
lựa chọn, giải pháp, tiến độ thực hiện.
Nếu khái quát kinh nghiệm (thành công cũng như chưa thật thành công) của
tòa án Đức về hòa giải tại tòa án, có thể đưa ra một số nhận xét sau đây:
·
Thứ nhất, các tòa án ở Đức đang trong giai đoạn thay đổi
hệ giá trị của họ (Paradigmenwechsel), tòa không chỉ xét xử, tòa án còn có chức
năng khuyến khích các hình thức giải quyết tranh chấp phi truyền thống khác, vừa
giảm phí tổn xã hội, vừa giảm sức ép công việc cho tòa. Họ thử nghiệm trong một
thời gian dài trong 6 năm rồi mới ban hành luật. Nhà nước đứng ra gánh chịu các
phi phí hòa giải, họ không thu phí của các bên tranh chấp cho công đoạn hòa giải
này, ngoại trừ án phí cho vụ kiện theo quy định chung. Như vậy, với người dân
& doanh nghiệp không phát sinh chi phí gì thêm. Chỉ thêm việc cho thẩm phán
và chi phí cho nhà nước.
·
Thứ hai, đạo Luật về hòa giải (2012) và các điều luật
sửa đổi về hòa giải tại tòa khá ngắn gọn, mang tính nguyên tắc, được quy định một
cách phổ quát: hòa giải phải tuân theo ý chí lựa chọn của các bên, chỉ tiến
hành nếu các bên đồng ý, thủ tục hòa giải có thể do các bên tự định đoạt, thường
là mang tính tiêng tư, bí mật; hòa giải viên phải là người có uy tín, trung lập,
có kỹ năng thúc đẩy các bên thương lượng. Số lượng các thẩm phán hòa giải tại
tòa khá hạn chế, họ tìm cách phân biệt cách xưng danh với hòa giải viên ngoài
tòa (thẩm phán thương lượng & hòa giải viên). Họ chú trọng bồi dưỡng, đào tạo,
cập nhật kiến thức cho hòa giải viên. Các tòa án ở Đức đều nỗ lực sử dụng các
phương tiện truyền thông để giới thiệu với người dân về lợi ích của hòa giải tại
tòa.
·
Thứ ba, có vẻ như khó khăn xuất hiện trong các khâu tổ
chức, ví dụ lựa chọn, bổ nhiệm thẩm phán hòa giải, cách thức phân bổ công việc
cho từng hòa giải viên tại tòa, cung cấp hồ sơ, bảo quản hồ sơ vụ kiện, điều kiện
cơ sở vật chất cho hoạt động hòa giải tại tòa, cũng như họ chưa thật sự thành
công trong hòa giải tranh chấp hành chính.
·
Thứ tư, căn cứ vào số liệu hòa giải tại tòa do Cục thống
kê liên bang công bố cho các năm 2014-2017, người Đức chưa thật thành công với
hòa giải tại tòa. Số lượng các vụ hòa giải án dân sự tại tòa dao động vào khoảng
25.000 vụ/năm, tính ra chưa tới 1% số án dân sự mà hệ thống tòa án nước này thụ
lý hàng năm, xu hướng không ổn định, ví dụ năm 2017 giảm so với năm trước đó[10].
Tuy nhiên tỷ lệ hòa giải thành khá cao, chiếm khoảng 50% số việc hòa giải. Cũng
không ít các ý kiến phê phán, rằng nhà nước Đức lại chi thêm tiền từ ngân sách
cho tòa án thực hiện dịch vụ hòa giải, trong khi việc này nên trao cho xã hội,
các trọng tài viên và người hành nghề hòa giải có thể tiến hành các dịch vụ này
một cách chuyên nghiệp và thu phí từ các bên tranh chấp.
II. Một số gợi ý chính sách đối với Dự thảo Luật Đối thoại, hòa giải tại tòa án
Về phạm vi vụ việc tiến hành
hòa giải tại tòa: Theo Dự thảo hiện nay, tòa án chỉ hòa giải những việc dân sự, hành
chính thuộc thẩm quyền của tòa, đã được khởi kiện. Sau khi thụ lý, lãnh đạo tòa
án sẽ chuyển vụ việc cho Trung tâm hòa giải, nếu xét thấy việc này ưu tiên hòa
giải. Tuy nhiên, tiêu chí cụ thể ưu tiên hòa giải như thế nào cần được làm rõ.
Thực tế ở Đức cho thấy chỉ có khoảng 1% án dân sự đã thụ lý được chuyển cho thẩm
phán hòa giải, ngoài ra còn có sự khác nhau đáng kể trong lãnh đạo các tòa địa
phương.
Có thể dự báo việc hôn nhân, gia đình, thừa kế, tranh chấp dân sự đơn giản
sẽ có tỷ lệ hòa giải thành công cao, ngược lại hòa giải tranh chấp hành chính
có thể sẽ khó khăn hơn. Cũng có thể lưu ý án kinh doanh thương mại cần được hòa
giải chuyên nghiệp, bảo mật hơn so với án dân sự, nếu đương sự yêu cầu.
Về lệ phí: Về cơ bản đương sự
không phải đóng chi phí gì thêm ngoài án phí đã nộp khi khởi kiện. Theo quy định
của Dự thảo hiện nay, nếu hòa giải thành, đương sự muốn công nhận kết quả hòa
giải thì phải đóng phí bằng 50% án phí. Quy định này là phù hợp, về cơ bản chi
phí cho hoạt động hòa giải tại tòa án do ngân sách nhà nước cấp.
Về Trung tâm hòa giải: Ngoài tòa, đã và sẽ
có nhiều trung tâm hòa giải tự quản của các tổ chức trọng tài, luật sư, tổ chức
bảo hiểm, xây dựng và các hiệp hội nghề nghiệp khác. Các trung tâm này có khách
hàng riêng và tiếp tục hoạt động trong khuôn khổ luật riêng. Thiết kế Trung tâm
hòa giải thuộc tòa của Ban soạn thảo là phù hợp, thực ra là một hình thức tổ chức
công việc của tòa, không lập ra một tổ chức tự quản mới bên cạnh tòa án.
Tuy nhiên, các hoạt động hòa giải tại tòa, ít nhiều cần tới kinh phí, đầu
tư trang thiết bị, và thù lao cho hòa giải viên. Thực tế, cũng như ở Đức, sẽ xuất
hiện câu hỏi liệu có nên đầu tư ngân sách cho hoạt động bổ sung này của các tòa
án hay không, hay mạnh dạn xã hội hóa, tức là khuyến khích hòa giải như là dịch
vụ bổ trợ tư pháp, do các tổ chức cá nhân hành nghề tiến hành trên cơ sở độc lập,
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính. Đây là một lựa chọn chính sách chiến
lược, cần thảo luận thêm.
Về Giám đốc Trung tâm hòa giải tại tòa: Tùy theo thiết kế
Trung tâm độc lập tự quản, hay là một phần của Tòa án, việc quy định về chức
danh Giám đốc cũng khác nhau. Nếu theo phương án Trung tâm hòa giải thuộc tòa
án, thì Giám đốc phải có chuyên môn để phân công và theo dõi các công việc được
giao cho các hòa giải viên, vì thế nên do Chánh án hoặc một Phó chánh án phụ
trách.
Hòa
giải viên: Luật của Cộng hòa Áo quy định
hòa giải viên phải từ 28 tuổi trở nên, có chuyên môn, phải đăng ký với tòa kèm
theo một bộ hồ sơ chi tiết, và phải nộp lệ phí, thời hạn đăng ký là 5 năm[11].
Theo Luật Đức, Güterichter phải là thẩm phán đã được bồi dưỡng
nghiệp vụ ít nhất là 60 giờ (3 đợt seminar, mỗi đợt 3 ngày) chuyên về thương lượng,
trung gian hòa giải[12].
Tuy nhiên, nội dung đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải cho hòa giải viên ở
Đức vẫn còn là chủ đề mới, chưa rõ ràng & thống nhất giữa các tiểu bang. Ban soạn thảo quy định về hòa giải viên tại Dự thảo luật
hiện nay khá linh hoạt, rộng rãi hơn so với luật Đức, bao gồm thẩm phán, cán bộ
tư pháp đã về hưu, dưới 70 tuổi, và những cá nhân khác có chuyên môn & uy
tín xã hội phù hợp. Lưu ý, nếu hòa giải tại tòa có phạm vi thu hẹp hơn so với
các hoạt động hòa giải ngoài tòa, thì hòa giải viên trong tòa cũng nên có đối
tượng được bổ nhiệm hẹp tương ứng, ví dụ không nên gồm luật sư hay chuyên gia
ngành luật nói chung. Các cá nhân này, nếu muốn hành nghề hòa giải, nên thành lập
các văn phòng riêng và hoạt động ngoài hệ thống tòa án./.
[2] Gesetz
zur Förderung der Mediation und anderer Verfahren der außergerichtlichen
Konfliktbeilegung“ vom 21. Juli 2012
[3] Ví dụ các
điều 278, 278 a ZPO (Luật tố tụng dân sự Đức).
[4] Martin Ahrens: Mediationsgesetz und Güterichter – Neue
gesetzliche Regelungen der gerichtlichen und außergerichtlichen Mediation.
In: Neue Juristische
Wochenschrift (NJW), 2012, Seite 2465–2474.
[5] Nikola
Friedrich: Mediation in der Sozialgerichtsbarkeit. In:
Max-Planck-Institut für Sozialrecht und Sozialpolitik (Hrsg.): Studien
aus dem Max-Planck-Institut für Sozialrecht und Sozialpolitik.
Band 53. Nomos, Baden-Baden 2011, ISBN
978-3-8452-3360-4, JSTOR:j.ctv941s4h (Zugl.: München, Univ., Diss., 2011; Open Access).
[6] Prof. Dr. Roland Fritz, M.A., Präsident des Verwaltungsgerichts
Frankfurt am Main, Vom mühsamen Weg
der Etablierung des Güterichters in der Verwaltungsgerichtsbarkeit, BDVR, Heft 1, 2013, pp 4-12, Karsten-Michael Ortloff: Vom
Gerichtsmediator zum Güterichter im Verwaltungsprozess. In: Neue Zeitschrift für
Verwaltungsrecht (NVwZ), 2012, Seite 1057–1061.
[7] § 278a ZPO Mediation, außergerichtliche Konfliktbeilegung
(1)
Das Gericht kann den Parteien eine Mediation oder ein anderes Verfahren der
außergerichtlichen Konfliktbeilegung vorschlagen.
(2)
Entscheiden sich die Parteien zur Durchführung einer Mediation oder eines
anderen Verfahrens der außergerichtlichen Konfliktbeilegung, ordnet das Gericht
das Ruhen des Verfahrens an.
[8]
Neues Deutschland, 18/07/2018
https://www.neues-deutschland.de/artikel/1094517.die-gerichtliche-mediation-spart-zeit-und-nerven.html
https://www.neues-deutschland.de/artikel/1094517.die-gerichtliche-mediation-spart-zeit-und-nerven.html
[9] § 278 ZPO Gütliche Streitbeilegung, Güteverhandlung, Vergleich
(1)
Das Gericht soll in jeder Lage des Verfahrens auf eine gütliche Beilegung des Rechtsstreits
oder einzelner Streitpunkte bedacht sein.
(2)
Der mündlichen Verhandlung geht zum Zwecke der gütlichen Beilegung des
Rechtsstreits eine Güteverhandlung voraus, es sei denn, es hat bereits ein
Einigungsversuch vor einer außergerichtlichen Gütestelle stattgefunden oder die
Güteverhandlung erscheint erkennbar aussichtslos. Das Gericht hat in der
Güteverhandlung den Sach- und Streitstand mit den Parteien unter freier
Würdigung aller Umstände zu erörtern und, soweit erforderlich, Fragen zu stellen.
Die erschienenen Parteien sollen hierzu persönlich gehört werden.
(3)
Für die Güteverhandlung sowie für weitere Güteversuche soll das persönliche
Erscheinen der Parteien angeordnet werden. § 141 Abs. 1 Satz 2, Abs. 2 und 3
gilt entsprechend.
(4)
Erscheinen beide Parteien in der Güteverhandlung nicht, ist das Ruhen des
Verfahrens anzuordnen.
(5)
Das Gericht kann die Parteien für die Güteverhandlung sowie für weitere
Güteversuche vor einen hierfür bestimmten und nicht entscheidungsbefugten
Richter (Güterichter) verweisen. Der Güterichter kann alle Methoden der
Konfliktbeilegung einschließlich der Mediation einsetzen.
(6)
Ein gerichtlicher Vergleich kann auch dadurch geschlossen werden, dass die
Parteien dem Gericht einen schriftlichen Vergleichsvorschlag unterbreiten oder
einen schriftlichen Vergleichsvorschlag des Gerichts durch Schriftsatz
gegenüber dem Gericht annehmen. Das Gericht stellt das Zustandekommen und den
Inhalt eines nach Satz 1 geschlossenen Vergleichs durch Beschluss fest. § 164
gilt entsprechend.
[10] Xem số liệu
chi tiết tại: https://www.mediatorenausbildung.org/justizstatistik-gueterichterstatistik-2017/
[11] Bundesgesetz
über Mediation in Zivilrechtssachen (Zivilrechts-Mediations-Gesetz –
ZivMediatG), BGBl. I Nr. 29/2003; Verordnung des
Bundesministers für Justiz über die Ausbildung zum eingetragenen Mediator
(Zivilrechts-Mediations-Ausbildungsverordnung – ZivMediat-AV), BGBl. II Nr. 47/2004.
(Zivilrechts-Mediations-Ausbildungsverordnung – ZivMediat-AV), BGBl. II Nr. 47/2004.
[12] Chi tiết về
chương trình bồi dưỡng hòa giải cho thẩm phán có thể xem ở đây: https://www.gueterichter-forum.de/gueterichter-konzept/praktische-umsetzung/bayern-empfehlungen-der-ag/