Dẫn nhập: Dựa trên Tờ trình của Chính phủ, và đề xuất từ chính các Ủy ban của Quốc hội,
Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học đang được sửa. Nội dung của hai đạo
luật này rất rộng. Để mỗi một lần sửa luật đạt hiệu quả, theo thiển nghĩ của
tôi, nên thảo luận hết sức tập trung, việc gì cấp bách, đáng phải sửa,
sửa xong sẽ khơi thông nguồn lực xã hội, thúc đẩy nền giáo dục quốc gia trở nên
có chất lượng hơn, thì hãy sửa. Về đại thể, cần trả lời ba câu hỏi:
Thảo luận chính sách giáo dục: Lựa chọn cách diễn đạt trong dự luật không phải là việc của dân chúng, các vấn đề chính sách và hậu quả của nó đối với các nhóm dân cư trong xã hội mới là điều đáng quan tâm hơn. Với góc nhìn đó, theo thiển ý của tôi, các hội thảo góp ý xây dựng luật và tranh luận tại nghị trường nên tập trung vào các vấn đề chính sách, giảm dần thói quen góp ý sửa chữa câu chữ của dự luật. Từ góc nhìn của một thành viên của Hội Luật gia Việt Nam, tôi cho rằng đây là một dịp rất phù hợp để nhìn lại thực trạng đào tạo luật (như là một ví dụ của ngành giáo dục), từ đó khái quát lên những bất cập chính sách chung, và hy vọng đưa ra các khuyến nghị có căn cứ, giúp cho Chính phủ và Quốc hội suy tính đã cần thiết phải sửa hai đạo luật này hay chưa, và nếu có, nên ưu tiên sửa đổi những chính sách cụ thể gì.
-
Trục trặc lớn nhất về giáo dục hiện nay là gì, trục trặc
đó có nguyên nhân từ chính sách pháp luật của Nhà nước hay không?
-
Trong khả năng nguồn lực hạn hẹp, Chính phủ nên ưu tiên làm
gì để giải quyết trục trặc đó?
-
Các giải pháp của Chính phủ đã thông minh, hiệu quả, công bằng
hay chưa, có đối tượng nào bị bỏ rơi bởi những giải pháp đó hay không?
Thảo luận chính sách giáo dục: Lựa chọn cách diễn đạt trong dự luật không phải là việc của dân chúng, các vấn đề chính sách và hậu quả của nó đối với các nhóm dân cư trong xã hội mới là điều đáng quan tâm hơn. Với góc nhìn đó, theo thiển ý của tôi, các hội thảo góp ý xây dựng luật và tranh luận tại nghị trường nên tập trung vào các vấn đề chính sách, giảm dần thói quen góp ý sửa chữa câu chữ của dự luật. Từ góc nhìn của một thành viên của Hội Luật gia Việt Nam, tôi cho rằng đây là một dịp rất phù hợp để nhìn lại thực trạng đào tạo luật (như là một ví dụ của ngành giáo dục), từ đó khái quát lên những bất cập chính sách chung, và hy vọng đưa ra các khuyến nghị có căn cứ, giúp cho Chính phủ và Quốc hội suy tính đã cần thiết phải sửa hai đạo luật này hay chưa, và nếu có, nên ưu tiên sửa đổi những chính sách cụ thể gì.
Xã hội hóa giáo dục và định nghĩa lại vai trò của
Nhà nước: Ba mươi năm trước, duy trì hệ thống nhà trường và nền giáo dục
về cơ bản là công việc của Nhà nước. Ngày nay, nền giáo dục đã được xã hội hóa
nhanh chóng, các cơ sở giáo dục tư nhân (với vốn đầu tư trong và ngoài nước),
các cơ sở giáo dục thiện nguyện của các tổ chức tôn giáo, đóng góp, bổ sung, và
cạnh tranh với các cơ sở công lập. Minh họa trong đào tạo luật, từ một trường Đại
học Pháp lý Hà Nội duy nhất trước kia, ngày nay đã xuất hiện ít nhất 53 cơ sở
đào tạo luật trên toàn quốc, sở hữu công lập và tư nhân, rất đa dạng. Việc mở một khoa luật mới, mở hệ đào tạo cử
nhân luật, thậm chí cao học luật, không hề quá khắt khe. Trong xu thế không thể
đảo ngược đó, do hạn chế về nguồn lực, để đáp ứng nhu cầu giáo dục của xã hội,
Nhà nước đã lùi dần. Tuy vậy, rất cần phải thảo luận liệu những ngành đào tạo như y khoa, dược học hay luật học
có nên đẩy mạnh xã hội hóa, hay vẫn nên được Nhà nước kiểm soát một cách gắt
gao? Trường tư nhân có nên có thẩm quyền đào tạo luật hay không, nếu có, điều
kiện phải là gì? Thực tế tư nhân đã tham gia đào tạo luật, kể cả hệ sau đại học.
Người tốt nghiệp luật ở từ các trường này có thể tham gia hành nghề luật hay
không (thẩm phán, luật sư, công tố,…)? Kinh nghiệm quốc tế có cho thấy xã hội
hóa đào tạo luật hay y dược là xu thế hiển nhiên, được thừa nhận rộng rãi hay
không? Tóm lại, trong bối cảnh giáo dục được xã hội hóa, rất cần thảo luận về
vai trò định chuẩn, điều tiết và quản lý của Nhà nước. Nhà nước đã làm tốt các
chức năng này hay chưa, hiện có những bất cập gì? Hai đạo luật sắp được đem ra
sửa có những điều chỉnh chính sách đáng kể gì nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của
Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục? Đây là điều cần được làm rõ.
Thương mại hóa giáo dục và hệ quả của nó: Sau khi các cơ sở giáo
dục công lập, tư thục xuất hiện, chúng phải cạnh tranh khốc liệt để tồn tại
trong thị trường. Các cơ sở công lập hiển nhiên cũng bị cuốn vào guồng ganh đua
đó. Giá cả cho dịch vụ đào tạo tự nhiên xuất hiện trước sức ép của cung và cầu
(việc Nhà nước ấn định trần học phí cũng rất ít ý nghĩa, tự thân thị trường sẽ
điều tiết giá cho dịch vụ này). Trong lĩnh vực luật học, có thể quan sát thấy
các trường quân sự và an ninh cũng mở ra các hệ dân sự có thu phí, các đại học
mở ra hệ chất lượng cao, một phần cũng để lách qua ngưỡng học phí đại trà mà
nhà nước quy định. Ngoài ra, hai Đại học luật Hà Nội và TPHCM cũng đang manh
nha thoát dần mô hình đại học đơn ngành theo kiểu Liên Xô cũ, ví dụ mở thêm các
lĩnh vực ngoài ngành luật như Tiếng Anh pháp lý, Quản trị - Luật. Một khi nhà nước lùi bước thì thị trường lấn tới. Để tồn
tại, các đại học bắt buộc phải chiều lòng người học để tuyển được sinh viên, giữ
được sinh viên, và thu được học phí. Để minh họa: 100% các chương trình sau đại
học ở nước ta đều là bán thời gian, tức là học tại chức, phần lớn vào buổi tối,
để chiều lòng và giữ chân người học. Rất hiếm học viên từ bỏ việc làm cho 1-2
năm học toàn thời gian để lấy bằng thạc sĩ trong nước, bởi lẽ chi phí cơ hội sẽ
trở nên quá cao. Các cơ sở dạy luật đều ráng sức mở hệ Tại chức, Văn bằng hai, với
yêu cầu trở nên dễ dãi rất nhiều so với hệ chính quy, nhiều trường cung cấp cử
nhân luật qua hệ trực tuyến và giảng dạy từ xa, với cách giảng dạy và đánh giá
lỏng lẻo hơn so với hệ Chính quy. Tóm lại, sức ép tài chính đã đe dọa các tiêu
chí chất lượng, cứ theo đà này nền giáo dục nước ta sẽ trở nên phổ cập, song chất
lượng không thể được cải thiện. Vậy, hai đạo luật sắp được đem ra sửa có những
chính sách gì để hóa giải nghịch lý hết sức rắc rối này? Làm thế nào để tài
chính các nhà trường trở nên đa dạng hơn, tránh tình trạng 99% nguồn thu của các nhà trường chỉ
trông chờ vào nguồn học phí? Nếu thúc đẩy tự chủ tài chính, các đại học
cần đa dạng tài chính, tránh lệ thuộc vào học phí.
Bất cân xứng thông tin & Vai trò của Nhà nước: Dịch vụ giáo dục là một
lĩnh vực bất cân xứng thông tin kinh điển, người học dựa vào đâu để đánh giá và
lựa chọn các cơ sở giáo dục, ví dụ trong lĩnh vực luật học là để so sánh và
đánh giá giữa 53 cơ sở đào tạo luật? Giáo viên trình độ cao (giáo sư, tiến sĩ),
Chương trình tiên tiến, Giáo trình chuẩn, Hệ tín chỉ hiện đại… về cơ bản là những
khái niệm khó đo lường. Ngay cả sự phân biệt giữa Chương trình tiên tiến (học
phí cao, khoảng 20-35 triệu đồng một học kỳ) so với Chương trình đại trà (giá
bình dân, khoảng 8-10 triệu đồng một học kỳ) cũng không thật rõ ràng. Tôi có
minh họa vô số bất cân xứng thông tin trong đào tạo luật học ở phần viết chi tiết
dưới đây. Từ đây đặt ra một câu hỏi về trách nhiệm của Nhà nước nhằm bảo vệ người
thụ hưởng dịch vụ, tức là người đi học và người sử dụng lao động. Người sử dụng
lao động dựa vào đâu để đánh giá chất lượng các tấm bằng, trong khi bằng Cử
nhân luật là điều kiện để hành nghề đối với rất nhiều nghề trong xã hội. Trong hai dự luật được đem ra sửa, Nhà nước có chính sách cụ thể gì nhằm
minh bạch, thúc đẩy cung cấp thông tin một cách công khai và dễ tiệm cận cho
người học và giải quyết nghịch lý bất cân xứng thông tin này?
Phân tán, cát cứ nguồn lực trong một nước nghèo: So với thương mại hay
quản trị kinh doanh, chắc rằng trong đào tạo luật học, Nhà nước nên giữ một tỷ
lệ đáng kể các cơ sở dạy luật công lập. Bài nghiên cứu dưới đây của tôi chỉ rõ,
nguồn lực Nhà nước ta rất có hạn, song lại phân tán, các ngành liên quan đến tư
pháp cát cứ các cơ sở đào tạo manh mún của mình. Cũng là công lập, song có quá
nhiều bộ, cơ quan ngang bộ, các tổng công ty và UBND các tỉnh làm chủ quản các
cơ sở dạy luật. Không thể có chất lượng đỉnh cao, nếu
nguồn lực trong một nước nghèo tiếp tục bị phân tán như vậy. Trong hai dự luật
được đem ra sửa, Nhà nước có chính sách cụ thể gì nhằm tập trung nguồn lực,
phát triển những cơ sở đào tạo công lập có chất lượng cạnh tranh quốc tế về luật
học, y học, hay những lĩnh vực tương tự mà Nhà nước cho rằng cần ưu tiên phát
triển.
Phân cấp quản lý đại học cho cấp tỉnh có đúng
không?: Khác với giáo dục mầm non, tiểu học và phổ thông, việc phân cấp
một số chức năng quản lý Nhà nước đối các trường đại học cho UBND cấp tỉnh, cụ
thể là cho Sở GD&ĐT, tôi e là một chủ trương chưa hoàn toàn có cơ sở. Một
khi UBND cấp tỉnh không có chuyên môn và năng lực phù hợp, song lại có thẩm quyền
trong việc thẩm tra mở ngành và giám sát đào tạo đại học trên địa bàn, điều này
chưa chắc đã làm cho chất lượng quản lý Nhà nước về giáo dục đại học hiệu quả
hơn. Khi sửa hai đạo luật liên quan, có thể nên lưu ý điểm này.
Hiệp hội định chuẩn và vai trò của Hội luật gia
Việt Nam: Cuối cùng, định chuẩn, cấp phép, đánh giá chất lượng văn bằng
chắc phải là một nhiệm vụ quản lý nhà nước quan trọng trong lĩnh vực giáo dục.
Nhà nước cũng có thể chuyển giao dần các chức năng này cho các Hiệp hội đào tạo
nghề. Nhân dịp sửa hai đạo luật này, 53
cơ sở dạy luật ở Việt Nam có lẽ nên nghiên cứu thảo luận để hình thành một Hiệp
hội các cơ sở đạo tạo luật, có chức năng định chuẩn và chấp nhận những cơ sở
nào đạt chuẩn để hành nghề luật ở nước ta. Có thể Hội Luật gia Việt Nam cần đóng một vai trò cầu nối hoặc bà đỡ khi
hình thành nên Hiệp hội đặc thù này.