Skip to main content

Dân phòng và Hiệp sỹ

Ước gì ra đường ta toàn gặp những khuôn mặt thánh thiện, nhân từ. Chỉ tiếc rằng điều mơ ước ấy chưa từng xảy ra trên trần thế, cái ác rình rập khắp nơi. Chỉ riêng chính quyền thì không đủ trấn áp, bởi thế cả xã hội phải chung tay phòng và chống cái ác.Từ đó sinh ra “hiệp sỹ”. Song cũng từ đó, không thiếu những vấn đề pháp lý rắc rối sẽ nảy sinh.
Suy cho cùng, các hoạt động tự giác, tự phát và vì nghĩa hiệp của các “hiệp sỹ” là sự phòng vệ của xã hội nhằm chống lại tội phạm. Một mặt, những hành vi ấy cần được xã hội tôn vinh, song mặt khác mọi hành vi phòng vệ đó không được phép lạm dụng. Cây gậy là công cụ phòng vệ, song nếu không bị kiểm soát, cây gậy cũng có thể là hung khí tấn công.
Giới hạn đó chính là những quy trình thủ tục khắt khe mà pháp luật đặt ra nhằm bảo vệ nhân phẩm, danh dự, sự tự do về thân thể và quyền tài sản bất khả xâm phạm của mọi người dân, kể cả của người có thể bị tình nghi phạm tội. Không ai được phép bắt giữ, giam cầm, truy bức hoặc tước đoạt tài sản của người dân, nếu không được một cơ quan tư pháp cho phép. Nghi phạm cũng là con người, không ai có quyền đánh đập họ, chỉ có tòa án mới có quyền tuyên bố một người là phạm tội.
Trên thế giới, bảo an, tức là bảo vệ an ninh công cộng, hay còn gọi là công an, thường là nghĩa vụ của các chính quyền địa phương. Trong sự tự quản của mình, chính quyền làng xã, thành phố hay tỉnh có quyền dự liệu ngân sách và xây dựng bộ máy công an cho phù hợp với từng vùng. Ở nước ta, dưới áp lực của phòng, chống tội phạm, bên cạnh lực lượng cảnh sát đã xuất hiện một bộ máy dân phòng, các lực lượng bảo vệ trật tự địa phương và ở nhiều địa phương miền Nam xuất hiện những nhóm “hiệp sỹ” giúp sức cho cộng đồng và chính quyền bảo vệ an ninh.
Nếu như lực lượng dân phòng dường như là cánh tay nối dài của nhà nước, được nhà nước trả một khoản phụ cấp hàng tháng, nhà nước cung cấp trụ sở và tiện nghi, thậm chí trang phục và thiết bị, thì ngược lại những nhóm hiệp sỹ hình thành tự phát bởi những người trọng đạo nghĩa, đôi khi xả thân hành đạo. Nếu dân phòng thường cặp đôi với công an, cảnh sát, thì ngược lại những hiệp sỹ thường xuất hiện để bênh vực những người yếu thế không còn biết trông cậy vào ai để chống lại những hành vi du côn, cướp bóc. Nếu dân phòng núp bóng vào nhà nước, thì hiệp sỹ có dáng dấp của xã hội dân sự. Nơi nào còn ít nhiều nền móng đạo nghĩa và tinh thần xả thân hành đạo, những nơi ấy còn dung dưỡng sự ra đời của hiệp sỹ. Nơi nào sự ích kỷ lên ngôi, người ta thờ ơ với cái ác, ở những nơi đó khó có thể xuất hiện hiệp sỹ.  
Tuy nhiên, tất cả những lực lượng này, kể cả dân phòng lẫn hiệp sỹ không được phép trao những quyền sử dụng quyền lực trấn áp của nhà nước. Trong phạm vi tự quản của cộng đồng, họ được phép tiến hành những biện pháp phòng vệ và ngăn ngừa tội phạm, ví dụ các hành vi tuần tra, cảnh giới, bắt nghi can phạm tội quả tang để trao nộp cho cảnh sát. Giới hạn của mọi hoạt động của “hiệp sỹ” là sự phòng vệ dân sự chính đáng, “hiệp sỹ” không thể nhân danh quyền lực công cộng mà giữ người, càng không thể tước đoạt tài sản hoặc sử dụng bạo lực để tấn công những người mà “hiệp sỹ” cho là nghi can.
Hành vi vượt quá mức độ phòng vệ dân sự, nếu thảo mãn các yếu tố cấu thành tội phạm, thật đáng tiếc vẫn phải bị lên án và trừng trị như những hành vi phạm tội khác. Không ai có thể nhân danh bất cứ điều gì để tấn công vào nhân phẩm, danh dự và tài sản của con người. Điều ấy lại càng phải đúng cho những con người được cho là hành động vì đạo nghĩa.

Popular posts from this blog

Enjoy the Voyage: Behind the Scenes of Tribunal Deliberations

Arbitration can be very simple, but it can also be a voyage to nowhere in the middle of the sea. From the departure to destination, the Tribunal as collective is expected to steer the board. It shall make decisions, either procedural or on merits, by deliberation. But how tribunal deliberations work, particularly in cross-cultural arbitration? That is certainly a mysterious black-box, because tribunal deliberations are case specific (it depends on the nature of the disputes), tribunal specific (it depends on the composition of the tribunal, the background and profile, and mentality of the presiding arbitrator and its fellows), and the like. But there are some best practice for efficient deliberations: Not consensus, but collegiality is important: each arbitrator shall actively be involved. Not focusing on the destination, enjoying the voyage: the facts, the issues, the rational behind the disputes are important. Not merely the award, an efficient case management, fairness and due

Đoán định tư pháp là gì?

Bài viết ngắn dưới đây góp phần tìm hiểu và trả lời các câu hỏi sau đây: (i) Đoán định tư pháp là gì, ra đời trong bối cảnh nào, có ảnh hưởng gì trong ngành tư pháp trên thế giới, (ii) Ngành tư pháp Việt Nam nên chuẩn bị như thế nào để chủ động ứng xử với xu thế Đoán định tư pháp [1] . Đoán định tư pháp (Predictive Justice) là gì? 1.       Đoán định tư pháp là một xu thế thay đổi cung cách cung cấp dịch vụ pháp lý, trong đó có hoạt động xét xử của tòa án, dưới sức ép của thời đại dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), với sự xuất hiện của các công ty khởi nghiệp công nghệ pháp lý (Legal Tech start-up), cung cấp những giải pháp tư vấn, hỗ trợ pháp lý trên nền tảng của các công nghệ thông minh. 2.       Xu thế này bắt nguồn từ những nỗ lực cung cấp nguồn luật mở (open data) từ 50 năm nay. Do công nghệ thay đổi rất nhanh (máy tính, vật liệu bán dẫn, chip điện tử, mạng Internet, các thuật toán dẫn tới trí tuệ nhân tạo), 50 năm qua máy tính đã thông minh hơn 1,

Cập nhật: 45 năm đào tạo luật ở VN

Đại diện cơ quan quản lý nhà nước phát biểu hôm qua tại ĐH Luật HCM rằng: nước ta đã cấp phép cho 95 cơ sở đào tạo luật, tức là cứ 1 triệu dân đã có một trường dạy luật. Mạng lưới các trường dạy luật VLSN cũng đã hình thành , góp thêm tiếng nói yêu cầu định chuẩn nghề luật, trước mắt Ban Nội chính TW, Liên đoàn Luật sư, Hội Luật gia, hai bộ GD-ĐT và Tư pháp chắc sẽ phải nghĩ ra cách để kiểm soát chất lượng đào tạo của các trường luật. Cũng nghe thêm tin rằng hàng năm trên toàn quốc số sinh viên nhập học ngành luật đã lên tới hàng chục vạn, đã xuất hiện xu thế cát cứ, ví dụ Tòa án sẽ tuyển dụng thư ký từ Học viện t òa án, VKS tuyển nhân lực từ Trường Đại học kiểm sát, thị trường việc làm cho sinh viên tốt nghiệp ngành luật sẽ thêm rối bởi xu thế cát cứ nêu trên. Như vậy, từ 1976 đến nay, VN đã có 45 năm đào tạo luật học. Vài ghi nhớ: Trước 1945, trường luật đã được mở tại HN dưới thời Pháp thuộc, bắt đầu từ bậc cao đẳng hành chính, sau đó nâng lên bậc cử nhân.  Sau 1954 ở phía Nam Đ