GÓP Ý CHO CHIẾN LƯỢC CỦA HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM
(Đà Nẵng, 10/06/2008- Thành phố này sạch-"đẹp" hơn Hà Nội nhiều rồi)
Dưới đây là một số ý kiến cá nhân của tôi cho bản Báo cáo Chiến lược phát triển của Hội Luật gia Việt Nam, tầm nhìn tới năm 2020:
Về địa vị pháp lý của Hội Luật gia Việt Nam
Theo tôi nên suy tính để dự liệu Hội Luật gia Việt Nam sẽ phát triển thành một tổng hội có nhiều tổ chức nghề nghiệp liên quan đến pháp luật là hội viên. Cả tổng hội và các hội viên đều có thể có tư cách pháp nhân, hoạt động vừa liên kết, tương trợ thống nhất, vừa độc lập và tự chịu trách nhiệm.
Cần làm rõ mấy vấn đề:
- Hội Luật gia đại diện cho ai là chính, ai trong số những người được gọi là luật gia sẽ là những thành viên cốt lõi nhất của Hội (điều này là cần thiết, vì nếu Hội bao gồm luật sư, thẩm phán, kiểm soát viên, thi hành án, người trong nghề công an, công chức nhà nước, giáo viên…, phạm vi quá rộng thì lợi ích phân tán, Hội có đông thành viên nhưng chưa chắc đã mạnh);
nếu thiết kế Hội Luật gia Việt Nam như một tổng hội, dưới đó sẽ có các hội thành viên liên kết chặt chẽ hơn bởi nghề nghiệp, thì cần làm rõ ý này, sau này Hội Luật gia Việt Nam sẽ là một tổ chức có nhiều các hội nghề nghiệp là thành viên như Hiệp hội luật sư, hiệp hội tư vấn pháp luật, hiệp hội giảng viên, hiệp hội công chứng viên, điều tra viên, thừa phát lại, vv.
- Nếu tư duy như một tổng hội, ngoài phân chia tổ chức theo địa giới hành chính như hiện nay, cũng nên định hướng tổ chức các hội thành viên theo nghề nghiệp, khu vực.
Nên nhấn mạnh chức năng tổ chức nghề nghiệp chuyên môn của Hội Luật gia, bao gồm giám sát tiêu chuẩn nghề luật, giám sát đạo đức nghề luật, bồi dưỡng nghề cho hội viên, đảm nhận trách nhiệm xã hội ngày càng tăng trong các lĩnh vực này (tham gia phản biện chính sách, tham gia xây dựng quy chế mẫu, quy chế tự quản cho hội viên, vv).
- Nên dự báo tính độc lập của Hội Luật gia, nhấn mạnh tính tự chủ về ngân sách, tự chủ về chính sách nhân sự, tự chủ trong các hoạt động và dự báo Hội sẽ là một trong các tổ chức phi chính phủ tách đáng kể khỏi ngân sách nhà nước trong tương lai gần.
Về mối quan hệ giữa Hội Luật gia và Liên đoàn Luật sư toàn quốc ở Việt Nam
Báo cáo nên có những quan điểm rõ ràng về mối quan hệ, tương tác, phối hợp, hỗ trợ giữa Hội Luật gia Việt Nam và các tổ chức nghiệp đoàn khác có thể sẽ có ảnh hưởng lớn đền giới luật học trong tương lai, ví dụ Đoàn Luật sư toàn quốc.
Cái gọi là “quyền lực mềm” mạnh nhất mà Hội Luật gia có thể hướng tới, đó là chức năng giám sát tiêu chuẩn, đạo đức nghề luật trong quy mô toàn quốc. Trong xu hướng xã hội hóa, các tổ chức hiệp hội sẽ đảm nhận dần chức năng cấp chứng chỉ hành nghề, theo dõi điều kiện đào tạo, kỷ luật nghề nghiệp hay rút giấy phép. Hội Luật gia sẽ rất mạnh nếu có quyền đưa ra tiếng nói trong việc xem xét cấp thẻ hành nghề luật cho: luật sư bào chữa, luật sư tư vấn, công chứng viên, thi hành viên, chấp hành viên, điều tra viên, thừa phát lại, vv. Nếu không đạt được các quyền đó, Hội Luật gia khó có quyền lực kiểm soát hội viên.
Ban soạn thảo Báo cáo nên phỏng vấn hay điều tra thêm cho đủ lập luận để đưa ra quan điểm của mình về quyền giám sát tiêu chuẩn và đạo đức hành nghề pháp luật của Hội Luật gia Việt Nam. Việc này có thể có vài xung đột về tầm nhìn với các cơ quan chức năng, song về lâu dài từ đào tạo tới cấp bằng nghề đều do quyền chuyên môn của các hiệp hội, nhà nước nên làm những việc khác, thay vì làm thay công việc chuyên môn của hội.
Về mối quan hệ giữa Hội Luật gia và các cơ sở đào tạo luật học
Muốn có hội viên luật gia tốt, phải bắt đầu từ đào tạo. Hội Luật gia phải có tiếng nói đáng kể trong kiểm soát chương trình dạy luật của các trường, có quyền công nhận hay không công nhận bằng cấp của các cơ sở ấy. Mỗi tuần ở Việt Nam hiện nay lại mọc thêm một trường đại học tư nhân, trong số đó sẽ xuất hiện không ít cơ sở dạy luật, hiện đã gần 40 và có thể tiến tới hàng trăm cơ sở dạy luật khác nhau. Nếu không có định chuẩn và liên kết giữa các cơ sở này, chất lượng luật gia sẽ có vấn đề. Đây chắc phải là một chức năng thuộc về Hội Luật gia-trong tương lai.
Về điểm này, xin nghiên cứu thêm về Hiệp hội luật sư Hoa Kỳ, nghiên cứu thêm về Hội luật sư Nhật bản, Hiệp hội thẩm phán Đức và các hội nghề khác trên thế giới để có thêm luận cứ.
Theo cá nhân tôi, Hội Luật gia Việt Nam phải là nơi hoặc diễn đàn để thống nhất chương trình dạy luật, thống nhất cách định chuẩn để các trường dạy luật công nhận bằng cấp lẫn nhau, là nơi để hướng nghiệp cho các luật gia trẻ, thầy cô dạy luật trẻ, là nơi định chuẩn về giáo trình dạy luật, là nơi giới thiệu địa điểm tập sự, thực tập, học nghề của luật gia.
Về vai trò của Hội Luật gia trong phản biện các chính sách, pháp luật
Hội Luật gia sẽ phải đối mặt với một thách thức lớn để góp phần phản biện các chính sách, trước hết là các chính sách liên hệ trực tiếp đối với hội viên của mình, sau nữa là chính sách, pháp luật nói chung. Xã hội càng phức tạp, ý kiến càng đa chiều, lập trường của Hội sẽ bị thách thức, nếu thiếu lý lẽ và sự thuyết phục, thì vai trò phản biện của Hội không thể cao.
Bởi vậy, phải suy tính để Hội Luật gia có thể đón được chức năng này trong vài năm nữa như thế nào. Có thể phải chọn lĩnh vực ưu tiên mà Hội có năng lực phản biện tốt nhất, chọn cách bồi dưỡng năng lực và điều kiện để phản biện. Điều này chưa thật rõ trong Báo cáo chiến lược phát triển.
Về vai trò xây dựng “pháp quy tự quản” của Hội Luật gia Việt Nam
Ngoài xây dựng luật, Hội luật gia các nước thường xây dựng các bộ nguyên tắc quy tắc ứng xử cho nhiều vấn đề chuyên sâu, ví dụ quy tắc mẫu cho các hợp đồng, cho giải quyết tranh chấp, thậm chí các đạo luật mẫu. Luật đôi khi không hiệu quả bằng quy chế tự quản của các nhóm cộng đồng trong xã hội.
Với tư cách là hội của những người làm nghề liên quan đến pháp luật, vai trò xác lập quy chế tự quản của Hội Luật gia Việt Nam cần được dự báo. Ban xây dựng chiến lược nên suy tính điều này.
Về hoạt động nghiên cứu, đào tạo của Hội Luật gia Việt Nam
Về điểm này, Chiến lược nên phân tích sâu thêm nhu cầu cập nhật kiến thức, nhu cầu trao đổi kỹ năng, nghiệp vụ của các nhóm hội viên. Điều này trở nên rất bức bách, bởi cử nhân luật thường vừa nhận bằng kiến thức đã có thể bị lỗi thời. Cũng như vậy đối với những người đang hành nghề, lưu lượng thông tin và sức ép học suốt đời làm cho họ có nhu cầu được tái đào tạo và tiếp tục được đào tạo về nghiệp vụ.
Báo cáo nên xác định mục đích ưu tiên của Hội trong hoạt động đào tạo cho hội viên, có thể là trao đổi nghiệp vụ, cập nhật kiến thức chuyên đề, hoặc cung cấp dịch vụ đào tạo chuyên sâu theo yêu cầu (ví dụ của khách hàng, các công ty, ngân hàng, thậm chí theo đặt hàng của cơ quan nhà nước).
Báo cáo chưa nhấn mạnh đến hoạt động nghiên cứu của Hội. Không có các viện đủ mạnh, Hội Luật gia khó có thể có chính kiến, khó có thể phản biện các chính sách do Chính phủ đề xuất. Trong 10 năm nữa, có thể Hội Luật gia Việt Nam buộc phải có một số viện nghiên cứu quy mô vừa và lớn mới đáp ứng được trách nhiệm xã hội.
Về chức năng giám sát đạo đức nghề nghiệp của Hội Luật gia Việt Nam
Điều này khá thiếu vắng trong Chiến lược. Hội không chỉ là nơi quy tụ, hội còn là nơi để giữ gìn đạo hành nghề. Giám sát đạo đức nghề luật là một việc mà Hội Luật gia phải có vai trò đáng kể.
Muốn giám sát được đạo đức hành nghề của hội viên, Hội Luật gia phải có một số quyền liên quan đến cấp phép hành nghề, thu hồi giấy phép, quyền cảnh cáo, tẩy chay.. Ban soạn thảo nên suy tính thêm ý này.
Về phương hướng gây quỹ của Hội Luật gia Việt Nam
Nên nhấn mạnh quyết tâm của Hội được độc lập về tài chính, kêu gọi sự trợ giúp từ Chính phủ, song không nhất thiết phải lệ thuộc vào phân bổ ngân sách của Chính phủ. Nên có lộ trình cụ thể, ví dụ Hội Luật gia Việt Nam sẽ tự chủ về ngân sách trong 10 năm nữa.
Nên vạch ra các nguồn thu chính, trong đó thu từ hội viên, thu từ lệ phí thi tuyển cấp phép hành nghề pháp luật, thu từ nghiên cứu, đào tạo, từ công tác xuất bản, báo chí, từ cung cấp dịch vụ, từ tài trợ.
Nên mạnh dạn nghĩ đến các cơ sở tự doanh độc lập của Hội, ví dụ công ty luật, nhà xuất bản sách pháp lý hoặc cơ sở dịch vụ khác của Hội. Nên đề xuất cách quản trị các cơ sở này một cách phù hợp để khuyến khích hội viên gây quỹ, vừa khuyến khích người quản trị năng động trong tìm kiếm nguồn kinh phí và cơ hội tăng quỹ.
Nên có kiến nghị về các chính sách ưu đãi về thuế và tài sản của Hội, ví dụ miễn thuế cho tặng tài sản với các công ty, tổ chức và cá nhân gây quỹ cho Hội Luật gia.
(Đà Nẵng, 10/06/2008- Thành phố này sạch-"đẹp" hơn Hà Nội nhiều rồi)
Dưới đây là một số ý kiến cá nhân của tôi cho bản Báo cáo Chiến lược phát triển của Hội Luật gia Việt Nam, tầm nhìn tới năm 2020:
Về địa vị pháp lý của Hội Luật gia Việt Nam
Theo tôi nên suy tính để dự liệu Hội Luật gia Việt Nam sẽ phát triển thành một tổng hội có nhiều tổ chức nghề nghiệp liên quan đến pháp luật là hội viên. Cả tổng hội và các hội viên đều có thể có tư cách pháp nhân, hoạt động vừa liên kết, tương trợ thống nhất, vừa độc lập và tự chịu trách nhiệm.
Cần làm rõ mấy vấn đề:
- Hội Luật gia đại diện cho ai là chính, ai trong số những người được gọi là luật gia sẽ là những thành viên cốt lõi nhất của Hội (điều này là cần thiết, vì nếu Hội bao gồm luật sư, thẩm phán, kiểm soát viên, thi hành án, người trong nghề công an, công chức nhà nước, giáo viên…, phạm vi quá rộng thì lợi ích phân tán, Hội có đông thành viên nhưng chưa chắc đã mạnh);
nếu thiết kế Hội Luật gia Việt Nam như một tổng hội, dưới đó sẽ có các hội thành viên liên kết chặt chẽ hơn bởi nghề nghiệp, thì cần làm rõ ý này, sau này Hội Luật gia Việt Nam sẽ là một tổ chức có nhiều các hội nghề nghiệp là thành viên như Hiệp hội luật sư, hiệp hội tư vấn pháp luật, hiệp hội giảng viên, hiệp hội công chứng viên, điều tra viên, thừa phát lại, vv.
- Nếu tư duy như một tổng hội, ngoài phân chia tổ chức theo địa giới hành chính như hiện nay, cũng nên định hướng tổ chức các hội thành viên theo nghề nghiệp, khu vực.
Nên nhấn mạnh chức năng tổ chức nghề nghiệp chuyên môn của Hội Luật gia, bao gồm giám sát tiêu chuẩn nghề luật, giám sát đạo đức nghề luật, bồi dưỡng nghề cho hội viên, đảm nhận trách nhiệm xã hội ngày càng tăng trong các lĩnh vực này (tham gia phản biện chính sách, tham gia xây dựng quy chế mẫu, quy chế tự quản cho hội viên, vv).
- Nên dự báo tính độc lập của Hội Luật gia, nhấn mạnh tính tự chủ về ngân sách, tự chủ về chính sách nhân sự, tự chủ trong các hoạt động và dự báo Hội sẽ là một trong các tổ chức phi chính phủ tách đáng kể khỏi ngân sách nhà nước trong tương lai gần.
Về mối quan hệ giữa Hội Luật gia và Liên đoàn Luật sư toàn quốc ở Việt Nam
Báo cáo nên có những quan điểm rõ ràng về mối quan hệ, tương tác, phối hợp, hỗ trợ giữa Hội Luật gia Việt Nam và các tổ chức nghiệp đoàn khác có thể sẽ có ảnh hưởng lớn đền giới luật học trong tương lai, ví dụ Đoàn Luật sư toàn quốc.
Cái gọi là “quyền lực mềm” mạnh nhất mà Hội Luật gia có thể hướng tới, đó là chức năng giám sát tiêu chuẩn, đạo đức nghề luật trong quy mô toàn quốc. Trong xu hướng xã hội hóa, các tổ chức hiệp hội sẽ đảm nhận dần chức năng cấp chứng chỉ hành nghề, theo dõi điều kiện đào tạo, kỷ luật nghề nghiệp hay rút giấy phép. Hội Luật gia sẽ rất mạnh nếu có quyền đưa ra tiếng nói trong việc xem xét cấp thẻ hành nghề luật cho: luật sư bào chữa, luật sư tư vấn, công chứng viên, thi hành viên, chấp hành viên, điều tra viên, thừa phát lại, vv. Nếu không đạt được các quyền đó, Hội Luật gia khó có quyền lực kiểm soát hội viên.
Ban soạn thảo Báo cáo nên phỏng vấn hay điều tra thêm cho đủ lập luận để đưa ra quan điểm của mình về quyền giám sát tiêu chuẩn và đạo đức hành nghề pháp luật của Hội Luật gia Việt Nam. Việc này có thể có vài xung đột về tầm nhìn với các cơ quan chức năng, song về lâu dài từ đào tạo tới cấp bằng nghề đều do quyền chuyên môn của các hiệp hội, nhà nước nên làm những việc khác, thay vì làm thay công việc chuyên môn của hội.
Về mối quan hệ giữa Hội Luật gia và các cơ sở đào tạo luật học
Muốn có hội viên luật gia tốt, phải bắt đầu từ đào tạo. Hội Luật gia phải có tiếng nói đáng kể trong kiểm soát chương trình dạy luật của các trường, có quyền công nhận hay không công nhận bằng cấp của các cơ sở ấy. Mỗi tuần ở Việt Nam hiện nay lại mọc thêm một trường đại học tư nhân, trong số đó sẽ xuất hiện không ít cơ sở dạy luật, hiện đã gần 40 và có thể tiến tới hàng trăm cơ sở dạy luật khác nhau. Nếu không có định chuẩn và liên kết giữa các cơ sở này, chất lượng luật gia sẽ có vấn đề. Đây chắc phải là một chức năng thuộc về Hội Luật gia-trong tương lai.
Về điểm này, xin nghiên cứu thêm về Hiệp hội luật sư Hoa Kỳ, nghiên cứu thêm về Hội luật sư Nhật bản, Hiệp hội thẩm phán Đức và các hội nghề khác trên thế giới để có thêm luận cứ.
Theo cá nhân tôi, Hội Luật gia Việt Nam phải là nơi hoặc diễn đàn để thống nhất chương trình dạy luật, thống nhất cách định chuẩn để các trường dạy luật công nhận bằng cấp lẫn nhau, là nơi để hướng nghiệp cho các luật gia trẻ, thầy cô dạy luật trẻ, là nơi định chuẩn về giáo trình dạy luật, là nơi giới thiệu địa điểm tập sự, thực tập, học nghề của luật gia.
Về vai trò của Hội Luật gia trong phản biện các chính sách, pháp luật
Hội Luật gia sẽ phải đối mặt với một thách thức lớn để góp phần phản biện các chính sách, trước hết là các chính sách liên hệ trực tiếp đối với hội viên của mình, sau nữa là chính sách, pháp luật nói chung. Xã hội càng phức tạp, ý kiến càng đa chiều, lập trường của Hội sẽ bị thách thức, nếu thiếu lý lẽ và sự thuyết phục, thì vai trò phản biện của Hội không thể cao.
Bởi vậy, phải suy tính để Hội Luật gia có thể đón được chức năng này trong vài năm nữa như thế nào. Có thể phải chọn lĩnh vực ưu tiên mà Hội có năng lực phản biện tốt nhất, chọn cách bồi dưỡng năng lực và điều kiện để phản biện. Điều này chưa thật rõ trong Báo cáo chiến lược phát triển.
Về vai trò xây dựng “pháp quy tự quản” của Hội Luật gia Việt Nam
Ngoài xây dựng luật, Hội luật gia các nước thường xây dựng các bộ nguyên tắc quy tắc ứng xử cho nhiều vấn đề chuyên sâu, ví dụ quy tắc mẫu cho các hợp đồng, cho giải quyết tranh chấp, thậm chí các đạo luật mẫu. Luật đôi khi không hiệu quả bằng quy chế tự quản của các nhóm cộng đồng trong xã hội.
Với tư cách là hội của những người làm nghề liên quan đến pháp luật, vai trò xác lập quy chế tự quản của Hội Luật gia Việt Nam cần được dự báo. Ban xây dựng chiến lược nên suy tính điều này.
Về hoạt động nghiên cứu, đào tạo của Hội Luật gia Việt Nam
Về điểm này, Chiến lược nên phân tích sâu thêm nhu cầu cập nhật kiến thức, nhu cầu trao đổi kỹ năng, nghiệp vụ của các nhóm hội viên. Điều này trở nên rất bức bách, bởi cử nhân luật thường vừa nhận bằng kiến thức đã có thể bị lỗi thời. Cũng như vậy đối với những người đang hành nghề, lưu lượng thông tin và sức ép học suốt đời làm cho họ có nhu cầu được tái đào tạo và tiếp tục được đào tạo về nghiệp vụ.
Báo cáo nên xác định mục đích ưu tiên của Hội trong hoạt động đào tạo cho hội viên, có thể là trao đổi nghiệp vụ, cập nhật kiến thức chuyên đề, hoặc cung cấp dịch vụ đào tạo chuyên sâu theo yêu cầu (ví dụ của khách hàng, các công ty, ngân hàng, thậm chí theo đặt hàng của cơ quan nhà nước).
Báo cáo chưa nhấn mạnh đến hoạt động nghiên cứu của Hội. Không có các viện đủ mạnh, Hội Luật gia khó có thể có chính kiến, khó có thể phản biện các chính sách do Chính phủ đề xuất. Trong 10 năm nữa, có thể Hội Luật gia Việt Nam buộc phải có một số viện nghiên cứu quy mô vừa và lớn mới đáp ứng được trách nhiệm xã hội.
Về chức năng giám sát đạo đức nghề nghiệp của Hội Luật gia Việt Nam
Điều này khá thiếu vắng trong Chiến lược. Hội không chỉ là nơi quy tụ, hội còn là nơi để giữ gìn đạo hành nghề. Giám sát đạo đức nghề luật là một việc mà Hội Luật gia phải có vai trò đáng kể.
Muốn giám sát được đạo đức hành nghề của hội viên, Hội Luật gia phải có một số quyền liên quan đến cấp phép hành nghề, thu hồi giấy phép, quyền cảnh cáo, tẩy chay.. Ban soạn thảo nên suy tính thêm ý này.
Về phương hướng gây quỹ của Hội Luật gia Việt Nam
Nên nhấn mạnh quyết tâm của Hội được độc lập về tài chính, kêu gọi sự trợ giúp từ Chính phủ, song không nhất thiết phải lệ thuộc vào phân bổ ngân sách của Chính phủ. Nên có lộ trình cụ thể, ví dụ Hội Luật gia Việt Nam sẽ tự chủ về ngân sách trong 10 năm nữa.
Nên vạch ra các nguồn thu chính, trong đó thu từ hội viên, thu từ lệ phí thi tuyển cấp phép hành nghề pháp luật, thu từ nghiên cứu, đào tạo, từ công tác xuất bản, báo chí, từ cung cấp dịch vụ, từ tài trợ.
Nên mạnh dạn nghĩ đến các cơ sở tự doanh độc lập của Hội, ví dụ công ty luật, nhà xuất bản sách pháp lý hoặc cơ sở dịch vụ khác của Hội. Nên đề xuất cách quản trị các cơ sở này một cách phù hợp để khuyến khích hội viên gây quỹ, vừa khuyến khích người quản trị năng động trong tìm kiếm nguồn kinh phí và cơ hội tăng quỹ.
Nên có kiến nghị về các chính sách ưu đãi về thuế và tài sản của Hội, ví dụ miễn thuế cho tặng tài sản với các công ty, tổ chức và cá nhân gây quỹ cho Hội Luật gia.
Comments