Skip to main content

Ban ve nong dan tu goc nhin so huu

THÊM VÀI LỜI BÀN VỀ NÔNG THÔN TỪ GÓC NHÌN SỞ HỮU

Phạm Duy Nghĩa

Dù nhìn gần hay xa, bao giờ nông thôn cũng là tương lai của một xứ nông nghiệp. Ai giữ được nông dân, người ấy thường kiểm soát được nhiệt độ của chảo lửa chính trị quốc gia. Sự ổn định của nước ta phụ thuộc vào cách mà các nhà chính trị đối xử với nông dân. Hiện nay có ba nguy cơ đối mặt với những người dân quê, đó là: (i) nông dân mất ruộng, (ii) nông dân chán ruộng, (iii) nông dân chán chốn thôn quê. Ly nông, ly hương, ly tán bất đắc dĩ, vấn đề xã hội của nông dân có thể trở thành những quả bom nổ chậm. Bài viết ngắn dưới đây góp vài thiển ý nhằm tìm hiểu lợi ích của nông dân trong các chính sách công.

Muốn dân không mất ruộng, phải xem lại chế độ sở hữu áp dụng đối với ruộng đất của nông dân. Muốn dân không chán ruộng, phải xem lại các chính sách tác động tới nông sản nhằm giúp nông dân được lợi. Có vẻ như một hạt thóc mang lại nhiều lời hơn cho người giữ độc quyền buôn bán giống, phân bón hay kênh xuất nhập khẩu gạo hơn là chút lợi rơi sót lại cho người nông dân. Muốn dân không bỏ quê, phải xem lại ai được lợi từ chi dùng tài chính công. Một khi điện, đường, trường, trạm, y tế, cây xanh, điện thoại cho tới truyền hình cáp ở đô thị đều sẵn, tốt và rẻ hơn ở nông thôn, thật chẳng ngạc nhiên khi phố chật chội với lao động nhập cư, trong khi thôn quê dần trở nên heo hút với người già và con trẻ.

Nông dân mất ruộng: Có vẻ như khẩu hiệu “dân cày có ruộng” nhiều thời đã lôi cuốn được nông dân đi theo vô số cuộc cách mạng. Thì vẫn thế, quyền tài sản tư nhân của nông dân vẫn bỏng giãy thời nay. Chỉ có điều trước những ánh mắt thèm khát tài nguyên của các ông chủ tư bản và sự im lặng của người có quyền, đôi khi người ta lảng tránh bàn về đề tài này. Song càng lảng tránh, đơn thư khiếu nại nhà đất càng chồng chất. Hơn 80% trong số gần 2 vạn đơn thư khiếu nại của cử tri gửi tới các cơ quan và đại biểu dân cử có nội dung liên quan đến quyền tài sản nhà đất của người dân. Tranh kiện liên quan đến nhà đất, đền bù, giải tỏa khi chuyển đổi đất ruộng thành đất kinh doanh là mầm mống cho vô số vụ “khiếu kiện tập thể” lan dần từ thôn quê lên thành thị. Chẳng cần tốn kém điều tra, chỉ tắt máy điều hòa, mở cửa sổ và nhìn ra cái oi bức của xứ nhiệt đới, quan chức nước ta sẽ cảm nhận được cái nóng từ quyền sở hữu ruộng đất đôi khi áp sát cổng chính quyền.
Để diễn biến hòa bình thành một xứ công nghiệp vào năm 2020, không thể im lặng mãi trước vấn đề quyền tài sản của nông dân đối với ruộng đất. Ngược lại muốn bảo vệ nông dân, Nhà nước phải bảo vệ quyền tài sản tư của họ, giúp họ tự do hưởng dụng quyền ấy phù hợp với quy hoạch quốc gia và địa phương. Tại sao việc giao đất cho các ông chủ tư bản (trong và nước ngoài) đều có thể dài tới 50 năm, trong khi đó ruộng đất giao cho nông dân canh tác bị giới hạn 20 năm. Tại sao ông chủ tư nhân có hầu hết các quyền sở hữu trên đất đã được giao (tùy nghi khai thác, hưởng dụng, chuyển bán, thế chấp); trong khi nông dân chỉ có quyền trồng cấy và thu lượm hoa lợi, thậm chí bị hạn định rõ là cây trồng hàng năm hay lưu niên.
Đất trở thành vàng, khi ruộng muống biến thành thành đất ở, đất kinh doanh. Chỉ tiếc rằng, khi ấy ruộng đất bị “thu hồi”, người nông dân canh tác bị “giải tỏa” và được đền bù “theo quy định của pháp luật”. Chỉ riêng cách dùng từ ngữ và thái độ của người làm luật đã cho thấy nông dân không được xem là ông chủ số tài sản có được từ nhiều đời cha ông của họ; ruộng đất của họ có thể bị dễ dàng tước đi vì các dự án sân golf, khu công nghiệp. Các ông chủ đích thực chính là những người có quyền lực lập dự án và hô biến ruộng lúa thành sân golf.
Vì lẽ ấy, muốn thành thực với nông dân không thể né tránh một cuộc cách tân đến tận gốc rễ, đó là minh định quyền tài sản của người nông dân Việt Nam đối với ruộng đất. Đối với đất canh tác đã được chia, được giao, được người dân tự khẩn hoang, nhà nước phải cho một thời hạn để họ tự đăng ký và long trọng tuyên bố quyền sở hữu bất khả xâm phạm của họ. Quyền tài sản ấy không bị giới hạn về thời gian, người dân tùy nghi canh tác, nhượng đổi phù hợp với quy hoạch của chính quyền, tùy nghi bán lại cho các ông chủ tư bản theo gia thỏa thuận hoặc góp vốn kinh doanh như cổ phần trong các công ty. Các ông chủ tịch tỉnh chỉ có quyền xây dựng quy hoạch, không thể có quyền thu hồi đất của nông dân giao cho các dự án, trừ khi nhà nước bỏ tiền mua lại đất của nông dân vì các mục đích công cộng theo nguyên tắc thỏa thuận dựa trên giá đất của thị trường. Đất đai của toàn dân thì Nhà nước trả lại cho người dân cũng là một lẽ đương nhiên. Nói cách khác, phải thay đổi cách nhìn về sở hữu toàn dân, tăng quyền tài sản tư đối với ruộng đất cho các gia đình nông dân, tôn trọng và nêu rõ thái độ của nhà nước sẽ bảo vệ sở hữu của họ khi cần thiết. Hiến pháp 1992 và Luật Đất đai 2003 cần được viết lại vì quyền lợi của nông dân.
Khác với động sản, đất không thể di dời, ngày càng có giá nếu được đầu tư cơ sở hạ tầng tiện cho dân sinh, ngày càng mất giá nếu môi trường sống suy thoái. Bởi lẽ đó, kể cả khi ruộng đất đã là của tư, bằng chính sách quy hoạch và đầu tư công, chính quyền dư sức làm tăng hay giảm một cách đáng kể giá trị của đất. Không chỉ đòi quyền tài sản, muốn bảo vệ sản hữu của mình, nông dân phải được tổ chức để can dự vào các chính sách công, ví dụ như tham gia vào quá trình quy hoạch địa phương, quy hoạch vùng và các dự án hạ tầng. Công khai quy hoạch, tạo cơ hội cho các nhóm lợi ích phản biện chính sách, tạo cơ hội cho cơ quan dân cử đại diện khách quan cho lợi ích các nhóm cử tri, xây dựng các thiết chế giải quyết bất đồng về lợi ích, có lẽ với nhiều cách ấy hy vọng sự tham gia của nông dân trong quy hoạch địa phương mới có thể xuất hiện.

Nông dân chán ruộng: Vừa mất ruộng, vừa chán ruộng có thể sẽ là một xu thế khó tránh khỏi mà người nông dân nước ta chắc chắn còn phải trải nghiệm ít nhất trong vài thập kỷ nữa. Làm ruộng thời thị trường cũng tựa kinh doanh, khôn sống mống chết, cuộc ganh đua tự nhiên sẽ dồn đẩy người nông dân theo nhiều thái cực, trong đó chắc sẽ có những người có năng lực quy tụ tài nguyên đất đai và nguồn lực con người, tổ chức kinh doanh nông nghiệp một cách hiệu quả trên quy mô rộng hơn. Những người còn lại có thể bị bần cùng hóa, trở thành vô sản, tìm kiếm cơ hội bằng cách bán sức lao động của mình. Tôi e rằng nhà nước khó có thể làm thay hay ngăn cản thị trường; chính sách hạn điền chỉ có thể làm chậm lại hoặc biến dạng sự xuất hiện của các địa chủ mới.
Theo một tư duy thị trường, người có năng lực phải được ban thưởng cho những nỗ lực của mình, tích tụ ruộng đất chắc phải là một nền tảng cho một nền nông nghiệp mang tính cạnh tranh. Khuyến khích và bảo hộ những sự tích lũy tự nhiên đó, đồng thời với những chính sách khuyến khích doanh nghiệp kinh doanh chế biến nông sản, liên kết chuyển giao công nghệ cho nhà nông, hạn chế độc quyền cung cấp nguyên liệu cho nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm, nhà nước cần có một thái độ rõ rệt trong khuyến khích cạnh tranh. Có vẻ như việc tổ chức thu mua, xuất khẩu gạo còn hàm chứa vô số độc quyền; những độc quyền ấy thường ít mang lại lợi ích cho nông dân.
Đã chấp nhận gia nhập WTO với những cam kết không bảo hộ đáng kể gì cho nông sản Việt Nam, điều còn lại mà nhà nước phải làm là vận dụng được tất cả những cơ hội mà luật lệ khắt khe của WTO cho phép để hỗ trợ cho người sản xuất nông nghiệp. Phần từ hạt gạo xuất khẩu dành cho nông dân có đủ lớn mới giữ được họ ở lại với ruộng đồng. Phần ấy có từ việc hạn chế độc quyền xuất nhập khẩu, hạn chế trung gian, song phần ấy cũng có thể khéo léo được tạo ra dưới đủ loại hình thức hỗ trợ mà quốc gia nào cũng hỗ trợ cho nông dân của mình, ví dụ dưới dạng các tài trợ hợp pháp cho thủy lợi, giống, phòng trừ sâu bệnh, hỗ trợ kỹ thuật.Thêm một điều mà nhà nước đáng ra phải làm đó là khéo léo nâng cao thái độ trân trọng nông sản Việt Nam trong nhận thức và thói quen của dân chúng. Gọi là khéo léo bởi dưới ánh mắt soi mói của các nhà tư bản nước ngoài bất kỳ hành vi phân biệt đối xử nào cũng có thể dẫn đến nhiều hệ lụy. Nhìn người Hàn rầm rộ biểu tình chống thịt bò Mỹ chợt thấy lo khi dân tộc không biết cách phản ứng trước gạo mốc hay nội tạng bảo quản bằng chất hại người được tuồn về từ Phương Bắc. Nông dân chỉ bám ruộng khi nông sản được giá, nông sản chỉ có giá khi được người mua tin dùng, cái vốn xã hội lớn lao dành cho nông sản Việt Nam chỉ có thể tạo ra với một thái độ rõ rệt của nhà nước.


Nông dân chán chốn thôn quê: Không ai muốn và có lẽ cũng chẳng ai có thể chối bỏ quê hương, song nếu mức sống đô thị và nông thôn quá xa khác thì nước ta còn chứng kiến những cuộc di dân to lớn hơn nữa hướng ra phố. Điều này phá nát đô thị và cũng xô đổ văn hóa nông thôn. Việc điều tiết lớn lao này không thể do thị trường, đó phải là trách nhiệm của nhà nước, càng bắt đầu muộn càng thêm tốn kém và bất lực.
Chính sách công có một tác động rất lớn có thể lèo lái tâm lý dân chúng, giúp họ vì những lợi ích cá nhân mà ở lại với nông thôn. Có người bảo nếu nhà nước chi 10 đồng cho y tế, thì đến 8 đồng chỉ có lợi cho khu vực đô thị, chỉ còn hai đồng rơi xuống y tế xã, y tế cộng đồng, các trung tâm cấp huyện và địa phương. Thì cũng thế đối với chi tiêu giao thông công cộng, giáo dục, điện nước và các hạng mục ngân sách khác, có vẻ như nhà nước càng tăng chi thì đôi khi người ở phố và người giàu càng được lợi.
Vì lẽ ấy, muốn làm cho cuộc sống nơi thôn quê tiện ích chẳng kém nơi đô thị, cần có một cuộc kiểm định lại tác động của chi dùng tài chính công đối với khu vực nông thôn và xây dựng các chính sách điều tiết phù hợp. Chẳng hạn, nếu thu nhập cho công chức, viên chức nhận nhiệm sở ở đô thị hay thôn quê, ở trung ương hay địa phương cùng một ngạch áp dụng cùng một chế độ thù lao thì các địa phương cũng đỡ than phiền về thiếu hụt nguồn nhân lực. Tương tự như vậy, nếu được khuyến khích trúng và thỏa đáng, các nhà kinh doanh hạ tầng (như điện, nước, truyền thông) sẽ có động lực vươn tới nông thôn. Mở rộng tranh luận, người dân sẽ có đủ muôn ngàn kế giúp phát triển nông thôn. Chỉ riêng chi tiêu ngân sách cho các bộ ngành, chẳng hạn nếu Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn được đặt tại vựa lúa Cửu Long, Tổng cục du lịch điều hành toàn ngành từ Quảng Ninh hay Bộ LĐ-TB-XH được đặt tại những miền quê Nam Định dư thừa lao động, tôi tin rằng nguồn kinh phí quốc gia sẽ không quá dồn vào những đô thị lớn mà lan tỏa ra rất nhiều vùng. Điều quan trọng đối với chính quyền, vì lẽ ấy, là năng lực lắng nghe và lựa chọn các giải pháp để từng đồng thuế của dân được phân bổ hợp lý nhất, cho hôm nay và cho những ngày sau./.

Comments

Popular posts from this blog

Nhàn đàm về thể chế

  1.            Dẫn nhập : Đầu năm 1845 khi phê bình triết gia Feuerbach, Karl Marx, lúc ấy còn khá trẻ, đã viết câu trên đây, câu sau này được dịch sang tiếng Anh và khắc trên mộ của ngài “ Die Philosophen haben die Welt nur verschieden  interpretirt , es kömmt drauf an sie zu  verändern - các triết gia chỉ tìm cách giải thích thế giới khác nhau, cái chính là phải tìm cách thay đổi thế giới ấy”. Gần 180 năm sau, Acemoglu & đồng sự, nhận được giải Nobel năm 2024, vì những đóng góp giải thích các nền văn minh thịnh hay suy tàn là do thể chế. Điều ấy đúng, hoặc đúng một phần. Nhân dịp này, cựu học viên Fulbright mời chúng tôi mạn đàm về thể chế. “Kỷ nguyên vươn mình”, nếu các bạn thích dùng chữ ấy, mong sẽ là tỉnh thức, bắt đầu với hành động. Nói đã đủ nhiều, đến lúc phải làm, làm nhiều hơn. Ở đất nước chúng ta, vinh quang thuộc về những con người hành động, công khai hay thầm lặng, ngày mỗi ngày bền bỉ làm cho thể chế n...

Ngổn ngang Công lý – Phần 1: Từ Yorktown tới Washington

  Phạm Duy Nghĩa 1.     Những dòng này dành cho ai: Bất công xảy ra khắp nơi, công lý thì khó khăn lắm mới đạt được. Mỗi ngày, nếu góp thêm tử tế, công bằng, và bớt dần bất công, thì thật quý. Công lý được giữ cho ngay ngắn, từng chút một, chung tay bởi tất cả mọi người. Đặng Hoàng Giang viết một cuốn sách có tựa đề “”Bức xúc không làm ta vô can””, quả là thế, bất công xảy ra do chúng ta né tránh, cam chịu, hoặc đồng lõa. Cùng góp sức chúng ta mới tạo ra và duy trì được lẽ công bằng ở đời. Những dòng này vì thế dành cho những ai muốn sống chậm một chút, dừng lại, đứng nhìn, quan sát, và tìm hiểu: Vì sao bất công đã xảy ra, và Vì sao công lý vẫn là một giấc mơ xa vời với rất nhiều dân tộc, trong đó có chúng ta. Thời đại này mạng xã hội, dữ liệu, tin tức, trí tuệ nhân tạo… đang thổi bay con người, đặt câu hỏi đúng đã là một nửa thành công. 2.     Cấu trúc của phần viết: Phần viết này được cấu trúc hồn nhiên như những mảng kiến thức vụn vặt mà tôi lượ...

Bên thứ ba trong Thủ tục trọng tài: Một góc nhìn từ thực tiễn thực thi pháp luật

Đề dẫn : Theo Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, vào thời điểm hiện nay nước ta đã có 48 tổ chức trọng tài được thành lập, với hơn 600 trọng tài viên, mỗi năm tham gia giải quyết hàng nghìn vụ tranh chấp thương mại [1] . Một dịch vụ trọng tài đã hình thành. Càng phát triển, những đặc thù của dịch vụ này càng lộ rõ hơn, trong đó có việc xử lý lợi ích của bên thứ ba. Rất khác với tố tụng toà án, về nguyên tắc, trọng tài là thủ tục không công khai, sự tham gia của bên thứ ba là ngoại lệ. Không thể học theo quy định của Tố tụng dân sự để đưa bên thứ ba vào Tố tụng trọng tài. Bài viết dưới đây thảo luận về việc xem xét và đảm bảo lợi ích của Bên thứ ba trong Thủ tục trọng tài. Sau khi minh họa một số tình huống trong đó các bên tranh chấp hoặc Hội đồng trọng tài có thể cần lưu ý tới lợi ích của Bên thứ ba. Mục tiêu của Tố tụng trọng tài là góp phần giải quyết các tranh chấp một cách công bằng, thúc đẩy các bên tự thực thi nghĩa vụ, tránh làm lan rộng thêm kiện tụng. Từ những cân nhắc đó, bài v...