Skip to main content

Bên thứ ba trong Thủ tục trọng tài: Một góc nhìn từ thực tiễn thực thi pháp luật

Đề dẫn: Theo Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, vào thời điểm hiện nay nước ta đã có 48 tổ chức trọng tài được thành lập, với hơn 600 trọng tài viên, mỗi năm tham gia giải quyết hàng nghìn vụ tranh chấp thương mại[1]. Một dịch vụ trọng tài đã hình thành. Càng phát triển, những đặc thù của dịch vụ này càng lộ rõ hơn, trong đó có việc xử lý lợi ích của bên thứ ba. Rất khác với tố tụng toà án, về nguyên tắc, trọng tài là thủ tục không công khai, sự tham gia của bên thứ ba là ngoại lệ. Không thể học theo quy định của Tố tụng dân sự để đưa bên thứ ba vào Tố tụng trọng tài. Bài viết dưới đây thảo luận về việc xem xét và đảm bảo lợi ích của Bên thứ ba trong Thủ tục trọng tài. Sau khi minh họa một số tình huống trong đó các bên tranh chấp hoặc Hội đồng trọng tài có thể cần lưu ý tới lợi ích của Bên thứ ba. Mục tiêu của Tố tụng trọng tài là góp phần giải quyết các tranh chấp một cách công bằng, thúc đẩy các bên tự thực thi nghĩa vụ, tránh làm lan rộng thêm kiện tụng. Từ những cân nhắc đó, bài viết gợi ý một vài lựa chọn chính sách liên quan đến Bên thứ ba có thể nên được tham khảo trong quá trình sửa đổi Luật Trọng tài sắp tới.  

Định nghĩa Bên thứ ba: Ngoài Nguyên đơn, Bị đơn, Ban thư ký, Hội đồng trọng tài, Người làm chứng, Chuyên gia thẩm định, Chuyên gia pháp lý, Người phiên dịch, Người cung cấp dịch vụ tốc ký, trong Thủ tục trọng tài có thể xuất hiện nhiều bên khác, phổ biến là trung gian thương mại, nhà thầu phụ, ngân hàng bảo lãnh, công ty mẹ/công ty con trong nhóm công ty, và những bên khác có lợi ích liên quan tới nội dung bản Phán quyết hoặc quá trình thi hành bản Phán quyết sau này. Các bên đó được gọi là Bên thứ ba, họ không phải là bên đã ký vào Thỏa thuận trọng tài. Nếu không xem xét tới lợi ích của họ thì Phán quyết trọng tài có khi thiên lệch, chỉ giải quyết được một quan hệ nghĩa vụ hẹp, không thấu đáo, chưa hẳn đã công bằng, sau Phán quyết còn kéo theo nhiều vụ kiện tụng tiếp nối, và vì thế quá trình thi hành Phán quyết khó mà suôn sẻ. Đó là các lý do cần lưu ý đến khía cạnh Bên thứ ba, dù về nguyên tắc Thủ tục trọng tài là việc không công khai chỉ dành riêng cho các bên tham gia Thỏa thuận trọng tài.

Thách thức tiềm ẩn trong thiết kế trọng tài: Trọng tài là một thủ tục riêng tư, không công khai, các sự kiện pháp lý được giả định đóng khung trong giao dịch song phương giữa Nguyên đơn và Bị đơn. Thực tế đời sống kinh tế lại hoàn toàn khác. Một giao dịch thường chỉ là biểu hiện giản đơn hoặc tức thời nổi lên của những hệ sinh thái gồm các mối quan hệ đa phương, đa bên, đa biến nhằng nhịt. Mua bán tưởng chừng là hành vi thương mại giản đơn giữa hai bên, song thực tế thường là một mắt xích trong chuỗi cung ứng vật liệu, sơ chế, gia công, đóng gói, vận tải, dịch vụ, cho tới người tiêu dùng. Một công trình xây dựng hiển nhiên được tạo ra từ vô số các dịch vụ, thiết kế, thi công, thầu chính, thầu phụ, cung cấp vật tư, giám sát công trình, ấy là chưa kể các mạch ngầm tài chính của các nhà tài trợ tín dụng, bảo lãnh. Sân khấu kinh tế luôn ẩn hiện vô vàn diễn viên, Thủ tục trọng tài chỉ như một khoảnh khắc diễn xuất tức thời của hai nhân vật Nguyên đơn và Bị đơn. Từ đây sinh ra mâu thuẫn tiềm ẩn trong thiết kế trọng tài: trọng tài tự giới hạn giải quyết xung đột lợi ích song phương, chỉ xem xét một mắt xích trong một hệ sinh thái cộng sinh nhiều bên. Làm thế nào để xử lý thỏa đáng, công bằng, vừa giữ được giới hạn của Thỏa thuận trọng tài, song cũng tính tới lợi ích thỏa đáng của Bên thứ ba, làm cho Phán quyết công bằng, khả dĩ nhất để thể thực thi, tránh kích hoạt tranh kiện liên miên với các bên thứ ba, đó chính là một thách thức tiềm ẩn trong Thủ tục trọng tài.

Sơ khảo nghiên cứu quốc tế: Quan tâm đến lợi ích của Bên thứ ba trong Tố tụng trọng tài là một chủ đề không mới trong nghiên cứu quốc tế. Sơ khảo, chỉ riêng từ năm 2009 cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu về chủ đề này (tham khảo chú dẫn tài liệu dưới đây)[2] . Cũng liên quan đến Bên thứ ba, thậm chí chuyên sâu hơn, đã có nhiều công bố về tài trợ tố tụng của Bên thứ ba, gọi là TPF/third-party funding[3] hoặc tranh tụng nhiều bên. Từ học thuật, án lệ, quy định pháp luật, tới thực tiễn trọng tài, người ta đã có thể tóm lược ra nhiều lý thuyết phổ quát về sự tham gia của Bên thứ ba trong Tố tụng trọng tài. Bên thứ ba có thể tham gia Tố tụng trọng tài dựa theo nhiều học thuyết như: (1) Agency, thuyết về đại diện, xem một bên tranh tụng như là đại diện của Bên Thứ ba, (2) Alter ego and veil piercing, thuyết về lạm dụng hình thức công ty, phá vỡ trách nhiệm hữu hạn của pháp nhân, (3) Group of companies, thuyết về các nhóm công ty khi mà công ty mẹ sở hữu và thao túng các công ty con hoặc kiểm soát chép lẫn nhau. (4) Succession, thuyết kế thừa, nhất là kế thừa nghĩa vụ trong các vụ mua bán, sáp nhập công ty, trong thừa kế, (5) Asignment or Subrogation, thuyết về nghĩa vụ thay thế, đôi khi bắt buộc, (6) Estopple, thuyết giả định, giả tưởng Bên thứ ba xem như đồng ý với Thoả thuận trọng tài, và (7) Implied Consent, thuyết cho rằng Bên thứ ba ngầm định đã đồng ý với Thoả thuận trọng tài. Sự hợp lý đằng sau mỗi lý thuyết này có thể nên được tham khảo khi dịch vụ trọng tài phát triển ở nước ta.

Sơ khảo nghiên cứu ở Việt Nam: Về tình hình trong nước, dường như giới quan tâm đến trọng tài mới bắt đầu thảo luận về Bên thứ ba trong Tố tụng trọng tài trong vài năm gần đây. Khoa Luật Quốc tế, ĐH Luật TPHCM (2022) đã tổ chức một Hội thảo về Bên thứ ba trong tố tụng trọng tài[4]. Ngoài ra, chuyên sâu hơn về chủ đề Tài trợ của bên thứ ba (TPF), VIAC (2022) đã công bố một vài nghiên cứu đầu tiên[5]. Ngược lại, trong thực tiễn tòa án, tài trợ tố tụng của Bên thứ ba có thể đã âm thầm diễn ra thường xuyên hơn. Có thể quan sát thấy hiện tượng luật sư tìm cách tạo điều kiện tài trợ cho thân chủ của mình trong tranh tụng. Nhiều tranh chấp đã phát sinh, có thể tham khảo những vụ án luật sư kiện thân chủ do thân chủ rút đơn kiện[6]; luật sư kiện thân chủ do không thân chủ không trả 150 cây vàng được xem như phí luật sư do luật sư đã ứng trước[7]; luật sư kiện thân chủ đòi tiền hứa thưởng 145 tỷ đồng[8]. Điểm chung của các vụ kiện này là: A khởi kiện B, song chi phí tranh tụng được tài trợ bởi C (C có thể chính là các luật sư). Do việc tài trợ có thể ảnh hưởng đáng kể đến hành vi tranh tụng của A và B, pháp luật cần quan tâm, điều chỉnh những hành vi tài trợ tranh tụng của Bên thứ ba. Điều này đúng cho tố tụng tòa án và cũng đúng cho tố tụng trọng tài.

Quan tâm về lợi ích Bên thứ ba trong thực tiễn trọng tài: Trong thực tiễn trọng tài đã xuất hiện nhiều tình huống mà các bên tranh chấp và/hoặc Hội đồng trọng tài có những mối quan tâm về lợi ích của Bên thứ ba. Đôi khi từ lợi ích của hai bên Nguyên đơn hoặc Bị đơn, đôi khi để có thể đưa ra một Phán quyết công bằng, Hội đồng trọng tài có thể có nhu cầu xem xét lợi ích của các Bên thứ ba dù họ không tham gia tố tụng.

Ví dụ 1: Khởi kiện Nhà quản lý: Nguyên đơn là một cổ đông nắm giữ một số lượng không đáng kể vốn điều lệ trong một Công ty cổ phần A (dưới đây viết tắt là CTCP) khởi kiện trong một vụ việc có tính chất là phân tách công ty. CTCP A thành lập một công ty con là A1. Nguyên đơn là cổ đông của CTCP A cho rằng Công ty con A1 đã gây thiệt hại cho Công ty mẹ và khởi kiện Nhà quản lý của CTCP A ra trọng tài, cho rằng Nhà quản lý đã thiếu mẫn cán, thiếu cẩn trọng, thiếu sự trung thành với lợi ích công ty. Căn cứ để khởi kiện là một quy định về trọng tài trong Điều lệ của CTCP A. Trong tình huống này A1 bị cáo buộc gây thiệt hại cho A, thiệt hại của A có thể trở thành thiệt hại về tài chính cho các cổ đông, và cổ đông sử dụng quyền khởi kiện của mình. Nếu chấp nhận Vụ kiện này, Hội đồng trọng tài phải hết sức cân nhắc mối quan hệ giữa nhóm công ty mẹ-con (A và A1), bởi lẽ lợi ích và thiệt hại trong một nhóm công ty có nhiều đặc thù. Nếu Hội đồng trọng tài chỉ bóc tách riêng mối quan hệ giữa một cổ đông và Nhà quản lý công ty, Phán quyết trọng tài chưa hẳn đã thỏa đáng trong Vụ kiện này.

Ví dụ 2: Nhà thầu phụ trong Quản lý tài sản: Nguyên đơn (A) kiện Bị đơn (B) yêu cầu thanh toán những khoản tiền mà Nguyên đơn đã và dự kiến sẽ phải thanh toán cho các nhà thầu phụ khi được Bị đơn giao quản lý và vận hành một khối tài sản. Trong số các nhà thầu phụ, một số đã hoàn thành hồ sơ yêu cầu thanh toán với Nguyên đơn, một số yêu cầu đã được Nguyên đơn phê duyệt, trong khi nhiều nhà thầu phụ còn lại dù đã yêu cầu thanh toán, song chưa hoàn thiện hồ sơ. Do Vụ kiện liên quan đến quá nhiều bên thứ ba là các nhà thầu phụ, nếu không xem xét toàn diện lợi ích của các bên thứ ba đó, Hội đồng trọng tài khó giải quyết triệt để vụ kiện. Một Phán quyết phiến diện thường sẽ mở đường cho nhiều vụ kiện kế tiếp. Công bằng, công lý khó có thể được thực thi.

Ví dụ 3: Một bên liên danh đấu thầu khởi kiện: A và A1 lập một liên danh, đã tham gia và đã trúng thầu một Dự án của Chủ đầu tư B. Tranh chấp đã xảy ra giữa liên danh đấu thầu và Chủ đầu tư. A khởi kiện nhân danh riêng mình, A1 không tham gia Vụ kiện. Hội đồng trọng tài gặp khó khăn vì A và A1 hành xử như một liên danh, một dạng hợp danh không có tư cách pháp nhân, quyền và nghĩa vụ của từng bên có thể là riêng rẽ, song cũng có thể khó phân tách, bởi nghĩa vụ liên đới của thành viên hợp danh. Bị đơn B muốn có sự tham gia của A1 để bảo đảm Phán quyết được toàn diện và công bằng.

Ví dụ 4: Ngân hàng bảo lãnh: A bán hàng cho B, B được Ngân hàng (C) cấp bảo lãnh, cam kết và điều kiện bảo lãnh có thời hạn. Cho rằng B đã giao hàng kém phẩm, A kiện B, Ngân hàng (C) có lợi ích và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Phán quyết trọng tài. Cả A, B và C đều có lợi ích và quan tâm tới Tố tụng trọng tài, song thỏa thuận trọng tài chỉ được A và B ký; quyền và nghĩa vụ của C sẽ bị ảnh hưởng đáng kể từ Phán quyết trọng tài, song C không phải là bên tranh chấp.

Ví dụ 5: Thiết kế-Thi công-Chủ đầu tư: A là Chủ đầu tư, kiện B là Nhà thầu do để xảy ra một sự cố kỹ thuật trong thi công. Trong quá trình thi công, B đã phát hiện Bản thiết kế do C cung cấp là có lỗi kỹ thuật. Sau khi phát hiện ra lỗi thiết kế, B tự sửa lỗi, tiếp tục tiến hành thi công, song công trình vẫn xảy ra sự cố. Vụ kiện liên quan đến trách nhiệm của C là bên thiết kế, nếu không xem xét tới lỗi, quyền và lợi ích của C trong sự cố công trình, rất có thể Phán quyết thiếu toàn diện và dẫn tới nhiều vụ kiện kế tiếp.

Ví dụ 6: Công ty mẹ-Công ty con: A là Nhà thầu kiện B là Chủ đầu tư là Doanh nghiệp (DN) FDI, doanh nghiệp này 100% sở hữu thuộc về Công ty mẹ ở nước ngoài. Công trình thi công tại Việt Nam do Công ty mẹ tài trợ, thuê thiết kế, phê duyệt, giám sát, thẩm định, chi trả, song khi ký hợp đồng chỉ có Công ty con là DN FDI ở Việt Nam tham gia. Chỉ riêng DN FDI này là Bị đơn. Nhiều hồ sơ do Công ty mẹ nắm giữ. Nếu chỉ dựa vào hồ sơ mà DN FDI là công ty con tại Việt Nam xuất trình, Phán quyết có thể không thỏa đáng, làm phát sinh nhiều vụ kiện kế tiếp.

Ứng xử với Bên thứ ba: Bài toán của các bên: Những ví dụ trên cho thấy, các bên tranh chấp vì lợi ích của chính họ, trong nhiều tình huống phải cân nhắc tới lợi ích của bên thứ ba. Trong quá trình thương lượng, luật sư các bên còn có nhiều tự do. Song nếu thương lượng bất thành và các bên đã đẩy tới Tố tụng trọng tài, quyền tự do này bị giới hạn đáng kể. Nếu không thể thỏa thuận với bên tranh tụng còn lại, không gian để xem xét lợi ích của Bên thứ ba trong pháp luật về trọng tài chắc rằng sẽ bị thu hẹp. Tùy vào tài ba và sự khéo léo của các luật sư tranh tụng, không gian cho Bên thứ ba trong Tố tụng trọng tài hy vọng mới có thể được nới ra dần dần. Bài toán này các luật sư tranh tụng buộc phải giải. Sáp nhập nhiều vụ kiện (Consolidation) hoặc tạo thoả thuận để Bên thứ ba tham gia vào Vụ kiện (Joinder) là vài công cụ. Trong các công cụ này, thường phải có sự thoả thuận của các bên.

Ứng xử với Bên thứ ba: Bài toán của Hội đồng trọng tài: Một Hội đồng trọng tài cẩn trọng nên xem xét kỹ thẩm quyền của mình, đảm bảo một cách chắc chắn để Phán quyết trọng tài không bị huỷ. Lý tưởng hơn, Hội đồng trọng tài nên nỗ lực đạt tới công bằng, thỏa đáng, và tạo cho Phán quyết cơ hội khả dĩ có thể để được thi hành. Nếu xuất hiện quá nhiều bên thứ ba, thậm chí lợi ích của bên thứ ba chi phối, hoặc được ưu tiên trước lợi ích của các bên tranh chấp, khi đó Hội đồng trọng tài phải rà soát cực kỳ thận trọng kỹ thẩm quyền của mình. Trong các tranh chấp công ty, ví dụ Cổ đông kiện Nhà quản lý, hoặc Cổ đông kiện các đồng Bị đơn là Cổ đông khác và Công ty, yêu cầu được nắm giữ cổ phần của mình thay vì bị phân chia, bị mua lại trong quá trình phân chia tài sản trong ly hôn của các cổ đông là cá nhân, tranh chấp giữa các bên khi Bị đơn có dấu hiệu mất khả năng thanh toán hoặc Bị đơn có dấu hiệu vi phạm các quy định hành chính, hình sự, những tình huống đa bên phức tạp này thường dẫn tới thẩm quyền của Tòa án, hơn là dành cho Trọng tài. Do có quá nhiều bên thứ ba, trong các tình huống như thế, dù có Thỏa thuận trọng tài, Hội đồng trọng tài cũng nên hết sức thận trọng khi gạt bỏ, không xem xét lợi ích của các bên thứ ba còn lại. Cách xem xét, tính toán tới lợi ích của Bên thứ ba như thế nào trong các tình huống đa bên như vậy, lại là một bài toán dành cho Hội đồng trọng tài.

Quy định của Luật trọng tài 2010: Khác với tố tụng tòa án, Hội đồng trọng tài chỉ có thẩm quyền nếu có Thỏa thuận trọng tài giữa các bên và chỉ xem xét các nghĩa vụ được Thỏa thuận trọng tài đó dẫn chiếu tới[9]. Trừ khi các bên tự nguyện sáp nhập nhiều tranh chấp vào trong một Vụ kiện, thậm chí với nhiều bên, có thể gồm cả các yêu cầu phản tố chéo, Hội đồng trọng tài thường không có quyền đưa lợi ích của các Bên thứ ba vào xem xét trong Tố tụng trọng tài. Điều này đúng với quan hệ nhóm công ty (công ty mẹ/công ty con), đúng với quan hệ ủy nhiệm ủy thác, đúng với tình huống có dấu hiệu Bên thứ ba được ngầm hiểu rằng có lợi ích và đồng ý tham gia Thỏa thuận trọng tài. Khác với pháp luật nhiều nước khác, pháp luật Việt Nam không cho phép Hội đồng trọng tài quyền xem xét lợi ích của Bên thứ ba trong thủ tục tố tụng trọng tài. Thậm chí trong một vụ tranh chấp, dù Nguyên và Bị đơn cùng dẫn chiếu và mong muốn bù trừ nghĩa vụ của chính họ, song được xác lập bởi một Hợp đồng khác, nếu Hội đồng trọng tài ghi nhận sự bù trừ nghĩa vụ đó sẽ tạo ra một sơ hở để tòa án hủy Phán quyết sau này.

Quy định và thực tiễn VIAC: Quy tắc của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) ban hành năm 2017 có quy định về việc nhập nhiều vụ tranh chấp vào một vụ kiện, trong một vụ tranh chấp được sáp nhập như vậy có thể xuất hiện nghĩa vụ từ nhiều hợp đồng khác nhau. Quy tắc của VIAC cũng chấp nhận những vụ kiện có nhiều bên[10]. Song cũng như pháp luật Việt Nam hiện hành, Quy tắc của VIAC dường như vẫn còn nhiều lỗ hổng, không quy định một cách chắc chắn rằng Hội đồng trọng tài có thể xem xét lợi ích của các Bên thứ ba được hay không, nếu không có một thỏa thuận rõ ràng của các bên tranh chấp.

Bên thứ ba có thể yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài được không?: Các lỗ hổng pháp lý nêu trên làm cho sự tham gia của Bên thứ ba trong Tố tụng trọng tài ở Việt Nam, theo pháp luật hiện hành, là không chắc chắn. Ngoài ra, trong tương lai khi Luật Trọng tài thương mại 2010 được xem xét sửa đổi, có thể cũng xuất hiện thêm các vấn đề, ví dụ liệu một Bên thứ ba có quyền yêu cầu huỷ Phán quyết trọng tài, nếu Phán quyết đó vi phạm nghiêm trọng lợi ích của Bên thứ ba đó hay không[11]? Trong quá trình thi hành Phán quyết trọng tài, nếu lợi ích bị vi phạm, liệu Bên thứ ba có thể khiếu nại việc thực thi phán quyết?

Bên thứ ba có thể kiện Hội đồng trọng tài đòi bồi thường thiệt hại được không?: Trong thực tiễn trọng tài đã xuất hiện các vụ kiện theo đó một bên tranh chấp khởi kiện các trọng tài viên do họ cho rằng Hội đồng trọng tài đã vi phạm nghĩa vụ, gây thiệt hại cho họ. Điều này có thể xảy ra trong quá trình tố tụng, ví dụ khi Hội đồng trọng tài ban hành các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Bên thứ ba có thể cũng có những quyền tương tự, khi họ cho rằng các quyết định hay phán quyết trọng tài có thể đã gây thiệt hại cho họ.

Kết luận: Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mang tính tư. Dịch vụ trọng tài đã phát triển nhanh tại Việt Nam. Cùng với sự phát triển đó, các đặc thù của dịch vụ trọng tài cũng dần dần bộc lộ, trong số đó là cách mà các bên và Hội đồng trọng tài cần ứng xử với các bên thứ ba. Hội đồng trọng tài nếu quá thận trọng, chỉ xem xét mọi sự kiện không vượt quá Thoả thuận trọng tài mang tính song phương giữa Nguyên đơn và Bị đơn. Việc xem xét lợi ích của các Bên thứ ba, nếu thiếu sự thoả thuận của các bên tranh chấp, sẽ trở nên rủi ro, Phán quyết có thể bị huỷ do vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật trọng tài. Mặt khác, tranh chấp chỉ được giải quyết ổn thoả, nếu các quyết định của trọng tài là công bằng, hợp lý về khía cạnh kinh tế, và khả dĩ để có nhiều cơ hội được thực thi. Để làm được điều đó, pháp luật Việt Nam cần được điều chỉnh theo hướng tạo không gian cho các Hội đồng trọng tài, nếu thật cần thiết, có được những công cụ pháp lý an toàn để xem xét lợi ích của các Bên thứ ba trong Tố tụng trọng tài./.

P/S: Đây là Ý kiến từ Toà án gửi Tổ biên tập sửa đổi Luật Trọng tài thương mại từ cuối năm 2023,  các thành viên trong Tổ biên tập chắc nên rất thận trọng khi xem xét Ý kiến này.




[1] https://bttp.moj.gov.vn/qt/Pages/trong-tai-tm.aspx
[2] Richard Garnett (2022) Third Parties in International Commercial Arbitration: Reframing the Debatte, Melborne Law School, https://law.unimelb.edu.au/__data/assets/pdf_file/0003/4805049/04-Garnett-154.pdf   Stavros L Brekoulakis (2011), Third Parties in International Commercial Arbitration, Oxford University Press; Stavros L Brekoulakis (2009), The Relevance of the interest of Third Parties in Arbitration: Taking a Closer Look at the Elepahnt in the Room, Penn State Law Review (2009 Vol. 113:4
[3] Hussein Heari at all (2022) Third-party funding in International Arbitration, https://globalarbitrationreview.com/guide/the-guide-ma-arbitration/4th-edition/article/third-party-funding-in-international-arbitration
[4] HCM-UL 2022, Hội thảo "Bên thứ ba trong pháp luật trọng tài: Thực tiễn quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam"; https://www.facebook.com/khoaluatquocte/videos/505996151186532/
[5] Châu Huy Quang (2022) Tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài và tố tụng tòa án trong tranh chấp thương mại, https://www.viac.vn/thu-tuc-trong-tai/tai-tro-cua-ben-thu-ba-trong-to-tung-trong-tai-va-to-tung-toa-an-trong-tranh-chap-thuong-mai-phan-i-a153.html
[6] Công ty Luật TNHH Minh Quang Đặng kiện ông Ly Sam, https://plo.vn/tam-khep-vu-an-la-lung-luat-su-kien-than-chu-doi-235-ti-post687688.html
[7] VPLS Vũ Ngọc Anh kiện ông Đào Thúc Lai, https://dantri.com.vn/xa-hoi/luat-su-kien-than-chu-de-doi-150-luong-vang-1156380580.htm
[8] Luật sư Đặng Đình Thịnh kiện bà Vương Thị Khanh, ông Nguyễn Đắc Kha, https://tienphong.vn/luat-su-kien-than-chu-doi-145-ti-dong-tien-hua-thuong-post756549.tpo
[9] Điểm đ, khoản 2, Điều 16 Luật Trọng tài thương mại 2010 dường như trao cho Hội đồng trọng tài thẩm quyền áp dụng học thuyết về Giả tưởng hoặc Ngầm định, theo đó thông qua các hành vi, thể hiện một bên đã biết “qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận”.
[10] Tham khảo Điều 6 “Tranh chấp từ nhiều hợp đồng” và Điều 15 “Gộp nhiều  tranh chấp vào một vụ tranh chấp” của Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam ban hành năm 2017.
[11] Các Điều 68-71 Luật Trọng tài thương mại 2010.

Comments

Popular posts from this blog

Enjoy the Voyage: Behind the Scenes of Tribunal Deliberations

Arbitration can be very simple, but it can also be a voyage to nowhere in the middle of the sea. From the departure to destination, the Tribunal as collective is expected to steer the board. It shall make decisions, either procedural or on merits, by deliberation. But how tribunal deliberations work, particularly in cross-cultural arbitration? That is certainly a mysterious black-box, because tribunal deliberations are case specific (it depends on the nature of the disputes), tribunal specific (it depends on the composition of the tribunal, the background and profile, and mentality of the presiding arbitrator and its fellows), and the like. But there are some best practice for efficient deliberations: Not consensus, but collegiality is important: each arbitrator shall actively be involved. Not focusing on the destination, enjoying the voyage: the facts, the issues, the rational behind the disputes are important. Not merely the award, an efficient case management, fairness and due

Đoán định tư pháp là gì?

Bài viết ngắn dưới đây góp phần tìm hiểu và trả lời các câu hỏi sau đây: (i) Đoán định tư pháp là gì, ra đời trong bối cảnh nào, có ảnh hưởng gì trong ngành tư pháp trên thế giới, (ii) Ngành tư pháp Việt Nam nên chuẩn bị như thế nào để chủ động ứng xử với xu thế Đoán định tư pháp [1] . Đoán định tư pháp (Predictive Justice) là gì? 1.       Đoán định tư pháp là một xu thế thay đổi cung cách cung cấp dịch vụ pháp lý, trong đó có hoạt động xét xử của tòa án, dưới sức ép của thời đại dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), với sự xuất hiện của các công ty khởi nghiệp công nghệ pháp lý (Legal Tech start-up), cung cấp những giải pháp tư vấn, hỗ trợ pháp lý trên nền tảng của các công nghệ thông minh. 2.       Xu thế này bắt nguồn từ những nỗ lực cung cấp nguồn luật mở (open data) từ 50 năm nay. Do công nghệ thay đổi rất nhanh (máy tính, vật liệu bán dẫn, chip điện tử, mạng Internet, các thuật toán dẫn tới trí tuệ nhân tạo), 50 năm qua máy tính đã thông minh hơn 1,