Skip to main content

CỦA BẠN, CỦA TÔI, CỦA ĐẤT NƯỚC CHÚNG TA: VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRONG CẢI CÁCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM


Ba mươi năm Đổi mới, nhiều người giàu lên vì đất. Tôi tưởng mang cả ba-lô tiền mặt đi săn đất Phú Quốc, hiện tượng ấy chỉ có ở Việt Nam. Tôi đã lầm. Từ cổ chí kim, hàng ngàn năm nay, của cải để dành của các dân tộc tuyệt đại đa số là nhà đất. Tệ hơn nữa, thời nào của cải cũng chảy vào chỗ trũng, những nhóm nhà giàu thiểu số thời nào cũng kiểm soát hầu hết sự thịnh vượng của các quốc gia [1].

Vì bất công, nên cách mạng xảy ra liên miên, tâm điểm của những cuộc cách mạng ấy thường liên quan tới phân phối lại sở hữu. Sau giải phóng miền Nam, cũng là khi nền kinh tế kế hoạch được ấn định trên phạm vi toàn quốc, về bản chất chúng ta đã xóa đi chế độ sở hữu cũ, lập ra sở hữu mới, gọi là sở hữu toàn dân, mọi nguồn lực kinh tế đều do Nhà nước kiểm soát và chỉ huy. Vượt rào, khoán chui cho tới Đổi mới, cuộc cải cách kinh tế từ 1986 cho đến nay về bản chất là trả lại quyền định đoạt sở hữu, nhất là quyền tài sản về nhà đất cho các hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp.

Nhờ ơn cuộc cải cách đó, hàng triệu người dân Việt Nam đã đổi đời. Từ 1986 đến nay, tính trung bình, GDP của nước ta tăng trưởng bình quân là 6.5%, một tốc độ tăng trưởng đáng tự hào trên thế giới (từ sau Thế chiến II cho đến nay chỉ có 13 quốc gia đạt mức độ tăng trưởng liên tục trên 7% một năm trong vòng 30 năm liên tiếp). Đó là mặt lấp lánh của tấm huy chương.

Mặt khác, trời thì xa nước Trung Hoa thì gần. Cũng trong 30 năm đó, Trung Quốc tăng trưởng liên tục bình quân 10% một năm. Thua kém Trung Quốc trong 30 năm qua đã đẩy Việt Nam vào thế yếu dần. Nếu như những năm 70s của thế kỷ trước, thu nhập bình quân của người Việt và người Trung Quốc là ngang nhau trong một thời gian rất dài, thì 30 năm sau, thu nhập bình quân của người Trung Quốc đã cao hơn 2,5 lần người Việt Nam. Càng yếu, càng lệ thuộc về kinh tế, càng khó giữ biển đảo, càng khó giữ chủ quyền.

Như vậy, đằng sau mặt lấp lánh tấm huy chương còn có mặt sần sùi, đó là đáng lẽ Việt Nam có cơ hội phát triển nhanh và tốt hơn nữa. Nhiều cơ hội đó đã bị bỏ lỡ, chúng ta đã phát triển dưới mức tiềm năng. 10 năm sau gia nhập WTO, Trung Hoa trở thành cường quốc dẫn đầu về kinh tế, viết tiếp sự phát triển thần kỳ của các dân tộc Đông Bắc Á. Tưởng là đồng văn và ít nhiều đồng chủng, song tôi lại cũng lầm, quốc gia chúng ta dường như rất khó sánh vai với Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Chúng ta đang tụt lại cùng Philipines và nhiều quốc gia kém phát triển phía Nam.

Rào cản ngăn nước ta phát triển chính là những cuộc cải cách sở hữu ngập ngừng, không triệt để. Là di sản của tổ tiên để lại, đất đai và các nguồn tài nguyên thiên nhiên hiển nhiên cần phải được hưởng dụng có lợi cho cả dân tộc, cho thế hệ này và cho các thế hệ mai sau. Như vậy, tuyên bố những nguồn tài nguyên này thuộc “sở hữu toàn dân” là đúng về đạo lý, về chính trị. Song khái niệm này không thể dùng được về mặt pháp lý. Không thể có ông chủ toàn dân.

Của bạn, của tôi, của thành phố hoặc đất nước chúng ta, mọi thửa đất phải có chủ rõ ràng. Chủ càng rõ trách nhiệm càng cao. Của đau con xót, vì lợi riêng, mọi phần tử trong xã hội sẽ ganh đua cạnh tranh, sự cạnh tranh ấy tạo nên sức mạnh bất diệt làm sinh sôi của cải, tạo ra phúc lợi chung. Vì lẽ đó, minh định sở hữu sẽ khơi thông tiềm năng phát triển.

Nói thì dễ, làm mới khó. Thúc đẩy cải cách sở hữu hiện nay rất khó. Sợ mất sở hữu công là mất công cụ kiểm soát nền kinh tế, chúng ta né tránh thảo luận tới tận cùng và chấp nhận hiện trạng nửa vời: từng chủ sử dụng đất giữ một số quyền, Nhà nước giữ một số quyền, trong đó quan trọng nhất là quyền thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng và đền bù giá đất theo giá Nhà nước xác định. Tất nhiên, ẩn sau Nhà nước là vô số bàn tay của cá nhân và tổ chức chia nhau giữ từng quyền quản lý. Hóa ra, từ của chung có thể phát sinh lợi riêng, sở hữu toàn dân đã trở thành tấm bình phong giúp các nhóm có thế lực kiểm soát hầu hết các nguồn lực của quốc gia chúng ta, từ đất đai, rừng biển, các con sông và vốn đầu tư trong doanh nghiệp nhà nước, trong các dự án công. Các nhóm đó đã trở nên giàu sụ và hùng mạnh, họ hiển nhiên không hề muốn thay đổi chế độ sở hữu hiện hành.

Các nhà kinh tế cảnh báo nước ta sẽ rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Về thể chế pháp luật, cũng có thể dự báo nước ta có nguy cơ bị kẹt giữa những thể chế mang tính khai thác, bóc lột; của cải của quốc gia ngày càng dồn vào tay những gia đình và thế lực kiểm soát quyền lực chính trị và kinh tế. “Ở đây muôn sự của chung, ai khéo vẫy vùng thì được của riêng”, đó là điều chúng ta không hề muốn. Của bạn, của tôi, của thành phố, của đất nước chúng ta, sở hữu phải rõ ràng thì quốc gia mới khơi thông thêm được tiềm năng phát triển. Vì lẽ ấy, tránh tụt hậu, không còn cách nào khác phải thúc đẩy cải cách sở hữu.



1 Tham khảo cuốn sách “Chủ nghĩa tư bản trong thế kỷ XXI” gây tranh luận dữ dội trong giới kinh tế học trong hai năm qua của Thomas Piketty (2013), Le Capital au XXIe siècle; Capital in the Twenty-First Century, (2014).

Popular posts from this blog

Nhàn đàm về thể chế

  1.            Dẫn nhập : Đầu năm 1845 khi phê bình triết gia Feuerbach, Karl Marx, lúc ấy còn khá trẻ, đã viết câu trên đây, câu sau này được dịch sang tiếng Anh và khắc trên mộ của ngài “ Die Philosophen haben die Welt nur verschieden  interpretirt , es kömmt drauf an sie zu  verändern - các triết gia chỉ tìm cách giải thích thế giới khác nhau, cái chính là phải tìm cách thay đổi thế giới ấy”. Gần 180 năm sau, Acemoglu & đồng sự, nhận được giải Nobel năm 2024, vì những đóng góp giải thích các nền văn minh thịnh hay suy tàn là do thể chế. Điều ấy đúng, hoặc đúng một phần. Nhân dịp này, cựu học viên Fulbright mời chúng tôi mạn đàm về thể chế. “Kỷ nguyên vươn mình”, nếu các bạn thích dùng chữ ấy, mong sẽ là tỉnh thức, bắt đầu với hành động. Nói đã đủ nhiều, đến lúc phải làm, làm nhiều hơn. Ở đất nước chúng ta, vinh quang thuộc về những con người hành động, công khai hay thầm lặng, ngày mỗi ngày bền bỉ làm cho thể chế n...

Ngổn ngang Công lý – Phần 1: Từ Yorktown tới Washington

  Phạm Duy Nghĩa 1.     Những dòng này dành cho ai: Bất công xảy ra khắp nơi, công lý thì khó khăn lắm mới đạt được. Mỗi ngày, nếu góp thêm tử tế, công bằng, và bớt dần bất công, thì thật quý. Công lý được giữ cho ngay ngắn, từng chút một, chung tay bởi tất cả mọi người. Đặng Hoàng Giang viết một cuốn sách có tựa đề “”Bức xúc không làm ta vô can””, quả là thế, bất công xảy ra do chúng ta né tránh, cam chịu, hoặc đồng lõa. Cùng góp sức chúng ta mới tạo ra và duy trì được lẽ công bằng ở đời. Những dòng này vì thế dành cho những ai muốn sống chậm một chút, dừng lại, đứng nhìn, quan sát, và tìm hiểu: Vì sao bất công đã xảy ra, và Vì sao công lý vẫn là một giấc mơ xa vời với rất nhiều dân tộc, trong đó có chúng ta. Thời đại này mạng xã hội, dữ liệu, tin tức, trí tuệ nhân tạo… đang thổi bay con người, đặt câu hỏi đúng đã là một nửa thành công. 2.     Cấu trúc của phần viết: Phần viết này được cấu trúc hồn nhiên như những mảng kiến thức vụn vặt mà tôi lượ...

Bên thứ ba trong Thủ tục trọng tài: Một góc nhìn từ thực tiễn thực thi pháp luật

Đề dẫn : Theo Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp, vào thời điểm hiện nay nước ta đã có 48 tổ chức trọng tài được thành lập, với hơn 600 trọng tài viên, mỗi năm tham gia giải quyết hàng nghìn vụ tranh chấp thương mại [1] . Một dịch vụ trọng tài đã hình thành. Càng phát triển, những đặc thù của dịch vụ này càng lộ rõ hơn, trong đó có việc xử lý lợi ích của bên thứ ba. Rất khác với tố tụng toà án, về nguyên tắc, trọng tài là thủ tục không công khai, sự tham gia của bên thứ ba là ngoại lệ. Không thể học theo quy định của Tố tụng dân sự để đưa bên thứ ba vào Tố tụng trọng tài. Bài viết dưới đây thảo luận về việc xem xét và đảm bảo lợi ích của Bên thứ ba trong Thủ tục trọng tài. Sau khi minh họa một số tình huống trong đó các bên tranh chấp hoặc Hội đồng trọng tài có thể cần lưu ý tới lợi ích của Bên thứ ba. Mục tiêu của Tố tụng trọng tài là góp phần giải quyết các tranh chấp một cách công bằng, thúc đẩy các bên tự thực thi nghĩa vụ, tránh làm lan rộng thêm kiện tụng. Từ những cân nhắc đó, bài v...